
PHẦN 1:
BẢN DỊCH VIỆT NGỮ 21 ĐIỀU
LUẬT MỚI
Lm. JB Lê Ngọc Dũng
Đại diện Tư pháp Gp. Nha Trang
(Cập nhật ngày 16-11-2017)
TIẾT 1
TÒA ÁN CÓ THẨM QUYỀN
Điều 1671
§1. Do
luật riêng, các vụ án hôn nhân của những người đã được Rửa Tội, thuộc quyền thẩm
phán Giáo Hội.
§2. Các
vụ án liên quan đến những hiệu lực thuần túy dân sự của hôn nhân thuộc quyền thẩm
phán dân sự, trừ khi luật địa phương ấn định rằng thẩm phán Giáo Hội có thể cứu
xét và giải quyết chính các vụ án đó, nếu các vụ án ấy được giải quyết như là vấn
đề phụ và tùy tòng.
Điều 1672
Đối với
những vụ án về sự bất thành của hôn nhân mà Tông Tòa không dành riêng cho mình,
thì các tòa án có thẩm quyền là:
10 Tòa
án địa phương nơi mà hôn nhân đã được cử hành;
20 Tòa
án địa phương nơi mà một hoặc cả hai bên có cư sở hay bán cư sở;
30 Tòa
án địa phương nơi mà trong thực tế phải thu thập được phần lớn các chứng cớ.
Điều 1673
§1. Trong
mỗi giáo phận và cho những vụ án về sự bất thành của hôn nhân mà không bị luật
minh nhiên loại trừ, thẩm phán của tòa án cấp một là Giám Mục giáo phận. Ngài
có thể đích thân hay nhờ những người khác thi hành quyền xét xử, chiếu theo qui
tắc của luật.
§2
Giám Mục phải thiết lập tòa án giáo phận cho giáo phận mình để xét xử những vụ
án về sự bất thành của hôn nhân, miễn là vẫn giữ nguyên năng quyền của Giám Mục
đó được xúc tiến tại một tòa án giáo phận hay liên giáo phận lân cận khác.
§3. Những
vụ án về sự bất thành của hôn nhân phải được dành cho hiệp đoàn gồm ba thẩm
phán. Chánh án tòa hiệp đoàn phải là thẩm phán giáo sĩ; những thẩm phán còn lại
cũng có thể là giáo dân.
§
4. Vị Giám Mục điều hành, nếu không thể thiết lập tòa án hiệp đoàn trong
giáo phận hay trong giáo phận lân cận được chọn theo quy tắc của §2, phải ủy
thác những vụ án cho một thẩm phán giáo sĩ duy nhất, và nơi nào có thể được, để
giúp mình vị này phải mời hai hội thẩm có đời sống liêm khiết, thông thạo trong
phạm vi luật pháp hay nhân văn, được Giám Mục chuẩn nhận cho nhiệm vụ này; vị
thẩm phán duy nhất có thẩm quyền thi hành những chức năng dành cho hiệp đoàn,
cho vị chánh án hay cho báo cáo viên, trừ khi rõ ràng là trái ngược.
§
5. Để thành sự, tòa án cấp hai luôn luôn phải là hiệp đoàn, theo như quy định
của §3 nói trên.
§6. Việc
kháng án được thực hiện từ tòa án cấp một lên tòa án cấp hai của Tổng Giám Mục
giáo tỉnh, miễn là vẫn giữ nguyên những quy định của những điều 1438-1439 và
1444.
TIẾT 2
QUYỀN KHÁNG NGHỊ HÔN NHÂN
Điều 1674
1. Những
người có năng cách kháng nghị hôn nhân là:
10 những
người phối ngẫu;
20 công
tố viên, khi sự bất thành của hôn nhân đã trở thành công khai, nếu hôn nhân
không thể thành sự hóa, hoặc không thích hợp nếu thành sự hóa.
§
2. Hôn nhân nào đã không bị khiếu tố khi hai người phối ngẫu còn sống, thì
cũng không thể bị khiếu tố khi một trong hai bên hay cả hai đã chết, trừ khi vấn
đề thành sự của hôn nhân là vấn đề tiên quyết để giải quyết một cuộc tranh tụng
khác hoặc ở tòa án Giáo Hội hoặc ở tòa án dân sự.
§
3. Nhưng nếu một người phối ngẫu chết trong khi vụ án chưa ngã ngũ, thì phải
giữ điều 1518.
TIẾT 3
KHỞI SỰ VÀ THẨM CỨU VỤ ÁN
Điều 1675
Trước
khi nhận xét xử một vụ án, thẩm phán phải chắc chắn rằng hôn nhân đã đổ vỡ
không còn sửa chữa được, đến nỗi không thể tái lập đời sống chung vợ chồng.
Điều 1676
§1. Khi
đã nhận đơn thỉnh cầu, vị Đại Diện tư pháp, nếu xét thấy đơn có một nền tảng
nào đó, thì phải chấp đơn và, bằng một sắc lệnh đính kèm ở cuối chính đơn này,
truyền gửi một bản sao để thông báo cho bảo hệ viên và, nếu đơn không được cả
hai bên ký tên, thì thông báo cho bị đơn và cho người ấy thời hạn mười lăm ngày
để bày tỏ ý kiến của mình về điều thỉnh nguyện.
§2. Quá
thời hạn nói trên, nếu và trong mức độ có thể được nhắc nhở một lần nữa cho bên
kia bày tỏ ý kiến, sau khi đã nghe ý kiến của bảo hệ viên, vị Đại Diện tư pháp
phải ra sắc lệnh xác định thể thức nghi vấn và quyết định vụ án phải được xử
theo thủ tục thông thường hay theo thủ tục ngắn gọn hơn theo những điều
1683-1687. Sắc lệnh này phải lập tức được thông báo cho các bên và cho bảo hệ
viên.
§3. Nếu
vụ án phải được xử theo thủ tục thông thường, Đại Diện Tư Pháp, cũng với sắc lệnh
đó, thu xếp việc thiết lập thẩm phán đoàn hoặc một thẩm phán duy nhất với hai hội
thẩm theo quy định của điều 1673§4.
§4. Tuy
nhiên, nếu ấn định xử theo thủ tục ngắn gọn hơn, Đại Diện Tư Pháp tiến hành chiếu
theo qui tắc của điều 1685.
§5. Thể thức nghi vấn phải xác định sự hữu
hiệu của hôn nhân đã bị kháng nghị vì lý do nào hoặc vì những lý do nào.
Điều 1677
§1. Bảo
hệ viên, các luật sư của các bên và cả công tố viên, nếu các vị này tham gia tố
tụng, đều có quyền:
10 có
mặt trong lúc thẩm vấn các bên, các người làm chứng và các giám định viên, miễn
là vẫn giữ nguyên những quy định của điều 1559;
20 xem
các án từ tư pháp, ngay cả khi những án từ đó chưa được công bố, và nghiên cứu
các tài liệu do các bên cung cấp.
§2. Các bên không được tham dự cuộc thẩm vấn được nói đến ở 1,10.
Điều 1678
§1 Trong
những vụ án về sự bất thành của hôn nhân, lời tự thú tư pháp và những lời khai
của các bên, có thể được thẩm phán đánh giá là có hiệu lực chứng minh đầy đủ,
sau khi vị này đã cứu xét tất cả những dấu hiệu và những yếu tố giúp xác thực,
miễn là không có những yếu tố khác phủ nhận chúng.
§2. Trong
những vụ án này, lời khai của một nhân chứng duy nhất có thể hoàn toàn đáng
tin, nếu đó là một nhân chứng có phẩm cách cung khai về những sự việc thuộc chức
vụ của mình, hoặc hoàn cảnh về người và sự việc chứng tỏ điều ấy.
§3. Trong
những vụ án về sự bất lực hay về hà tì ưng thuận do bệnh tâm thần hoặc do những
bất thường thuộc bản chất tâm lý, thẩm phán phải nhờ đến sự giúp đỡ của một hay
nhiều giám định viên, trừ khi hoàn cảnh cho thấy rõ việc giám định không cần
thiết; còn trong những vụ án khác, phải giữ những quy định của điều 1574.
§4. Mỗi
khi thẩm cứu vụ án mà thấy có một nghi vấn rất hữu lý về hôn nhân bất hoàn hợp,
sau khi nghe ý kiến các bên, tòa án có thể đình hoãn vụ án về sự bất thành, bổ
túc việc thẩm cứu để xin miễn chuẩn hôn nhân thành nhận, và sau đó chuyển những
án từ đến Tông Tòa, kèm theo đơn xin miễn chuẩn của một hay của hai người phối
ngẫu, cùng với ý kiến của Tòa án và của Giám Mục.
Tiết 4
BẢN ÁN, NHỮNG KHÁNG NGHỊ VÀ THI HÀNH
Điều 1679
Bản án
đầu tiên mà tuyên bố hôn nhân là bất thành, sau khi đã mãn các thời hạn được ấn
định trong những điều 1630-1633, trở nên có hiệu lực thi hành.
Điều 1680
§1. Bên
nào cảm thấy mình bị thiệt hại, cũng như công tố viên và bảo hệ viên, đều có tố
quyền xin tiêu hủy bản án hoặc kháng cáo chống lại bản án đó theo những điều
1619-1640.
§2. Mãn thời
hạn luật ấn định cho việc kháng án và tiến hành kháng án, tòa án cấp trên sau
khi đã nhận được các án từ tư pháp, phải thiết lập tòa án hiệp đoàn, chỉ định bảo
hệ viên và nhắc nhở các bên bày tỏ ý kiến trong một thời hạn quy định; mãn thời
hạn đó, nếu thấy kháng án rõ ràng chỉ là trì hoãn, thì tòa án hiệp đoàn ra sắc
lệnh xác nhận bản án của tòa án cấp một.
§3. Nếu việc
kháng án được chấp nhận, phải tiến hành cùng cách thức giống như ở tòa cấp một,
với những thích nghi phù hợp.
§4. Nếu ở
cấp kháng cáo người ta đưa ra một luận cứ nền tảng mới khiến hôn nhân bất
thành, thì tòa án có thể chấp nhận luận cứ đó và xét xử như ở tòa án cấp một.
Điều 1681
Nếu một
bản án đã có hiệu lực thi hành, có thể thượng cầu lên toà án cấp ba bất kỳ lúc
nào để xin xử lại vụ án chiếu theo quy tắc của điều 1644, bằng cách trưng ra những
chứng cứ hay những luận cứ mới và quan trọng trong thời hạn nhất định là ba
mươi ngày, kể từ ngày nộp đơn thượng cầu.
Điều 1682
§1. Sau
khi bản án tuyên bố hôn nhân bất thành có hiệu lực thi hành, thì những người mà
hôn nhân của họ được tuyên bố là bất thành có thể tái hôn, trừ khi lệnh cấm tái
hôn được kèm thêm vào chính bản án hoặc được ấn định bởi Đấng Bản Quyền địa
phương.
§2. Ngay
sau khi bản án có hiệu lực thi hành, vị Đại Diện Tư Pháp phải thông báo bản án
đó cho Đấng Bản Quyền địa phương nơi hôn nhân đã được cử hành. Vị này phải lo
liệu, sớm hết sức, để quyết định về hôn nhân bất thành và những lệnh cấm kèm
theo, nếu có, được ghi chú vào sổ hôn phối và sổ rửa tội.
Tiết 5
TỐ TỤNG HÔN NHÂN NGẮN GỌN HƠN
TRƯỚC GIÁM MỤC
Điều 1683
Chính
Giám Mục giáo phận có thẩm quyền xét xử những vụ án hôn nhân bất thành với thủ
tục ngắn gọn hơn mỗi khi:
1° Đơn
thỉnh cầu được cả hai bên phối ngẫu đệ trình hay do một trong hai bên, với sự đồng
ý của bên kia;
2° Những
hoàn cảnh về người và sự việc diễn ra, được các chứng cớ hay tài liệu giúp chứng
tỏ, cho thấy rõ sự bất thành, mà không cần một cuộc điều tra hay thẩm cứu xác
đáng hơn.
Điều 1684
Ngoài
những điểm được nêu ra ở điều 1504, đơn thỉnh cầu được xét xử theo thủ tục ngắn
gọn hơn, phải:
1°
trình bày vắn tắt, đầy đủ và rõ ràng những sự kiện làm nền tảng cho sự thỉnh cầu;
2° chỉ
ra các chứng cứ mà thẩm phán có thể thu thập được ngay;
3° đính kèm những tài liệu làm căn cứ cho việc
thỉnh cầu.
Điều 1685
Vị Đại
diện tư pháp, trong cùng một sắc lệnh, phải ấn định thể thức nghi vấn, chỉ định
thẩm cứu viên và hội thẩm và triệu tập tất cả những ai phải tham dự cho một
phiên vụ được tiến hành không quá ba mươi ngày sau, theo điều 1686.
Điều 1686
Thẩm cứu
viên, phải cố gắng hết sức thu thập các chứng cứ chỉ trong một phiên vụ, và phải
ấn định thời hạn mười lăm ngày để trình các ý kiến bảo vệ dây hôn phối và biện
hộ của các bên, nếu có.
Điều 1687
§1. Sau
khi nhận được các án từ, Giám Mục Giáo phận tham khảo ý kiến với thẩm cứu viên
và hội thẩm, cân nhắc các ý kiến của bảo hệ viên cũng như những lời biện hộ của
các bên, nếu có, và nếu thấy đạt đến sự chắc chắn luân lý về sự bất thành của
hôn nhân, thì ngài tuyên bố bản án. Nếu không, ngài phải chuyển vụ án về để xử
theo thủ tục thông thường.
§2. Toàn
bộ nguyên văn bản án có nêu các lý do phải được thông báo sớm hết sức cho các
bên.
§3. Kháng
cáo chống lại bản án của Giám Mục thì trình lên tòa án của Tổng Giám mục giáo tỉnh
hay lên Tòa Thượng Thẩm Roma; nếu bản án do Tổng Giám mục giáo tỉnh ban hành,
thì kháng cáo đưa lên tòa án của Giám Mục cao niên hơn trong giáo tỉnh; và
kháng cáo chống lại bản án của một Giám Mục mà không có bề trên nào dưới Đức
Giáo Hoàng Roma, thì đưa lên tòa án của Giám Mục đã được ngài chỉ định cách cố
định.
§4. Nếu
thấy kháng án rõ ràng chỉ là trì hoãn, Tổng Giám Mục giáo tỉnh hay Giám Mục nói
ở §3, hoặc Niên Trưởng tòa Thượng Thẩm Roma, phải ra sắc lệnh khước từ ngay từ
đầu; ngược lại, nếu kháng án được chấp nhận, thì gửi trả vụ án về xử ở cấp hai
theo thủ tục thông thường.
TIẾT 6
TỐ TỤNG DỰA TRÊN TÀI LIỆU
Điều 1688
Sau
khi đã nhận một đơn thỉnh cầu chiếu theo quy tắc của điều 1676, Giám Mục giáo
phận hay Đại Diện tư pháp hoặc vị thẩm phán được chỉ định, bỏ qua những thể thức
của tố tụng thông thường, trừ việc triệu tập các bên ra tòa và sự can thiệp của
bảo hệ viên, có thể tuyên bố hôn nhân bất thành bằng một bản án, nếu có một tài
liệu không thể bị phản đối hay khước biện chứng minh rằng chắc chắn có một ngăn
trở tiêu hôn hay thiếu thể thức giáo luật, miễn là cũng thấy chắc chắn rằng
ngăn trở đã không được miễn chuẩn hoặc người đại diện đã không có ủy nhiệm thư
hữu hiệu.
Điều 1689
§1. Nếu
bảo hệ viên, nhận định cách khôn ngoan rằng những thiếu sót được nói ở điều
1688 hoặc việc thiếu phép chuẩn là điều không chắc chắn, thì phải kháng án lên
thẩm phán của tòa án cấp hai; các án từ phải được chuyển lên thẩm phán tòa án cấp
hai, và phải thông báo bằng văn bản cho vị này biết đó là một tố tụng dựa trên
tài liệu.
§2. Bên nào thấy mình bị thiệt hại, bên đó
vẫn có quyền kháng án.
Điều 1690
Với sự can thiệp của bảo hệ viên và sau khi nghe các bên, thẩm phán tòa án cấp hai phải quyết định cũng một cách thức nói đến ở điều 1688, xem có phải xác nhận bản án hay không hoặc có phải giải quyết vụ án theo cách thông thường của luật hay không, trong trường hợp này, thẩm phán gởi trả vụ án về tòa án cấp một.
PHẦN 2:
BÌNH GIẢI 21 ĐIỀU LUẬT MỚI
VỀ TỐ TỤNG HÔN NHÂN (Đ. 1671-1691)
LM. J.B. Lê Ngọc Dũng,
Đại diện Tư pháp GP. Nha Tran,g
dịch
Việt ngữ
và
bình giải 21 điều luật tố tụng hôn nhân mới (đ. 1671-1691)
của
Đức Giáo hoàng Phanxicô,
ban
hành trong Tự sắc Mitis Iudex Dominus Iesus.
(Cập
nhật ngày 10-2-2020)
Trong Bộ Giáo
luật 1983, những điều luật này được đặt ở:
QUYỂN 7
TỐ TỤNG
PHẦN III
VÀI TỐ TỤNG ĐẶC
BIỆT
ĐỀ MỤC 1
TỐ TỤNG HÔN NHÂN
CHƯƠNG 1
NHỮNG VỤ ÁN
TUYÊN BỐ
HÔN NHÂN BẤT
THÀNH
TIẾT 1
TÒA ÁN CÓ THẨM
QUYỀN
Art. 1 - De foro
competenti et de tribunalibus

Điều 1671 tổng
hợp những quy định của hai điều 1671 và 1672 cũ.
Luật khẳng định
thẩm quyền Giáo Hội trên vụ án hôn nhân của người được Rửa Tội. Thẩm quyền này
không chỉ chi phối trên người Công Giáo Latinh (đ.1), hoặc chi phối trên những
hôn nhân mà ít nhất trong đó có một người thuộc Công Giáo (đ. 1059), mà còn mở
rộng thêm trên những Kitô hữu khác không hiệp thông với Công Giáo như người
theo đạo Chính Thống, Tin Lành… nhưng đã được Rửa Tội thành sự. Nên lưu ý, điều
1671§1 xác định về “quyền thẩm phán” chứ không có ý nói Bộ Giáo luật “chi phối”
cả những Kitô hữu ngoài Công Giáo.
Còn đối với hôn
nhân của hai người lương, Giáo Hội có nhận thẩm xét không? Khi không ai trong
hai vợ chồng chịu phép Rửa tội, họ không thuộc sự chi phối của Giáo Luật và
Giáo Hội cũng không nhận xét xử vì không có thẩm quyền trực tiếp trên họ. Tuy
nhiên, Giáo Hội không chối từ những ai đi tìm thiện ích từ Hội Thánh. Cũng như
tôn trọng quyền xin được học giáo lý, xin Rửa Tội của người lương, Giáo Hội
cũng không chối từ việc người lương tìm sự giải gỡ ngăn trở dây hôn nhân đã có
từ trước để kết hôn với người Công Giáo.
Việc tòa án Giáo Hội nhận đơn xin tiêu hôn những người lương cũng là phù hợp
với quy định của điều 1476: “Bất cứ ai, đã được rửa tội hay không, đều có thể
khởi tố, còn bên bị kiện cách hợp pháp phải trả lời”. Điều 1674§1 cũng xác định
những người có năng cách kháng nghị hôn nhân là những người phối ngẫu, mà không
đặt điều kiện là họ đã được rửa tội hay không.
Điều 1671§2 tôn
trọng thẩm quyền dân sự đối với các hiệu quả thuần túy dân sự của hôn nhân như:
phân chia tài sản, cấp dưỡng con cái…, trừ khi luật riêng của địa phương có ấn
định cách khác. Luật riêng này có thể thấy ở những quốc gia mà chính quyền dân sự
và Giáo Hội địa phương có những hiệp ước với nhau về vấn đề hôn nhân. Tuy nhiên
các hiệu quả đó chỉ được giải quyết như vấn đề phụ hay tùy tòng chứ không như
vấn đề chính của vụ án.
Về việc thụ lý
đơn xin tiêu hôn của người lương: Một số án lý của Tòa Rota Romana cho thấy Tòa án Giáo
hội có thể nhận đơn tuyên bố hôn nhân vô hiệu của người lương:
1. Án lệ
Rota Roma – coram Anné (22.02.1975)
Trong vụ
này, một người không Công giáo đã xin tuyên bố vô hiệu hôn nhân tự nhiên của
mình, để có thể kết hôn với một người Công giáo.
· Tòa Rota khẳng định: “Ecclesia potest et debet iudicare de validitate vel invaliditate
matrimonii naturalis, cum exinde pendeat ius catholici ad nuptias ineundas.” (Giáo Hội có thể và phải xét xử tính thành sự hay vô hiệu của một hôn nhân
tự nhiên, khi từ đó tùy thuộc quyền lợi kết hôn của người Công giáo).
· Đây là một án lệ mang tính nguyên
tắc, cho phép thụ lý đơn người lương trong trường hợp này.
2.
Coram Boccafola (03.05.1990)
· Vấn đề: Người lương đã kết hôn
theo hình thức dân sự, sau đó muốn kết hôn với một người Công giáo.
· Tòa xác quyết: Tòa án Giáo hội có
thẩm quyền nhận đơn, bởi vì việc giải gỡ hôn nhân tự nhiên này liên
quan trực tiếp đến ius connubii (quyền kết hôn) của người Công
giáo.
3.
Coram Stankiewicz (19.11.1993)
· Khẳng định rằng: “Non solum baptizati, sed etiam infideles, possunt actionem nullitatis
matrimonii coram tribunali ecclesiastico instituere, si causa respicit bonum
Ecclesiae vel bonum fidelium.”
(Không chỉ người đã Rửa tội, mà ngay cả người lương, cũng có thể khởi kiện xin
vô hiệu hôn nhân trước tòa án Giáo hội, nếu vụ việc liên hệ đến lợi ích của
Giáo Hội hay của tín hữu).
4.
Ccoram Burke (16.12.2000)
· Tòa khẳng định lại nguyên tắc mục vụ: “Ecclesia non recusat adiuvare etiam infideles, qui libertatem ad matrimonium cum catholico quaerunt.” (Giáo Hội không từ chối giúp đỡ cả những người lương, khi họ tìm kiếm sự tự do để kết hôn với người Công giáo).

Điều 1672 quy
định về thẩm quyền tòa án, được đổi mới so với điều 1673 cũ. Thẩm quyền tòa án
được mở rộng hơn, do giảm bớt đi những hạn chế liên quan đến quyền của Đại Diện
tư pháp nơi bị đơn có cư sở. Theo luật mới này, thẩm phán nơi nguyên đơn không
phải xin phép Đại Diện tư pháp bên bị đơn nữa. Từ nay tòa án địa phương nơi
nguyên đơn hay bị đơn đều có quyền nhận đơn, miễn là họ có cư sở hay bán cư sở
tại đó.
Theo luật, cư sở
hay bán cư sở thủ đắc được do ý định ở hoặc do thời gian cư ngụ. Luật quy định
thời gian cư ngụ là 3 tháng cho bán cư sở và 5 năm cho cư sở (đ. 102). Ý định
thuộc bên trong tâm hồn nhưng cũng có thể có những dấu chỉ rằng người đó sẽ tạm
trú hay sẽ cư ngụ lâu dài. Ví dụ như người đến một nơi có ý định cư ngụ trên 5
năm, biểu hiện bằng việc mua nhà mới. Người này tuy mới sống được vài tháng,
chưa đủ 5 năm, nhưng cũng đã thủ đắc được cư sở tại đó, do có ý định.
Việc có được cư
sở hay bán cư sở là kiểu thủ đắc tự động theo luật chứ không theo kiểu được ban
phát bởi giáo quyền. Nó thường bị hiểu lầm là phải có sự đăng ký nhập tịch vào
một giáo xứ hay giáo phận, hoặc phải trình diện với cha sở để ghi vào sổ sách. Một
người, nếu đã được thủ đắc cư sở hay bán cư sở theo quy tắc luật, thì người ấy
có những quyền lợi và nghĩa vụ mà luật chỉ định. Vì vậy, ngay cả khi tạm trú đã
được ba tháng trong một giáo xứ hay giáo phận, người ấy thủ đắc được bán cư sở
và tòa án giáo phận đó có thẩm quyền xử vụ án hôn nhân của người này.[1]
Điều 1672 số 3 quy định tòa án giáo phận của nơi mà
trong thực tế phải thu thập được phần lớn các chứng cứ. Nơi đó có thể là nơi mà
cha mẹ và bà con của các bên đang ở, là nơi có nhiều nhân chứng, mặc dù đôi bạn
đó cư ngụ và kết hôn ở những giáo phận khác.
Luật mới, điều 1672, đưa ra ba điều kiện về thẩm quyền của tòa án xét xử. Ba
thẩm quyền này thì ngang nhau. Người xin kháng nghị hôn nhân có quyền nộp đơn ở
bất cứ ở thẩm quyển nào để được xét xử, miễn là vẫn hết sức duy trì nguyên tắc
“gần gũi” giữa thẩm phán và các bên để giảm thiểu chi phí.[2]
Theo nguyên tắc
luật, trong trường hợp có hai tòa án cùng nhận xử cùng một vụ hôn nhân, do hai
bên đều nộp đơn ở hai tòa án khác nhau, ví dụ như chồng nộp đơn tòa án ở giáo
phận A mà vợ nộp đơn ở giáo phận B, thì hôn nhân của họ chỉ được xét xử trong
một tòa án mà thôi (đ. 1414). Khi có nhiều tòa án có thẩm quyền cùng nhận đơn
thì tòa nào đã triệu tập các bên trước thì tòa ấy có quyền xét xử vụ án (đ.
1415).
Sau khi kết thúc
vụ án với một thời gian bất kể bao lâu, nếu thấy có một nền tảng nào đó có thể
giải quyết cho họ, tòa án cũng có thẩm quyền xét xử lại vụ án.[3] Điều này dựa trên nguyên tắc: vụ án liên quan
đến tình trạng nhân thân, như kết hôn, chức thánh, khấn dòng…, thì không bao
giờ thành vấn đề quyết tụng (đ.1643), nghĩa là, vụ án không coi như đã hoàn
toàn xử xong, hoặc không bị coi như đã được quyết định hoàn toàn xong, hoặc
không bị coi là không còn quyền khiếu nại (đ.1641, 1642).
Trong trường hợp khi thẩm phán nhận xử vụ án mà không
có danh nghĩa nào trong ba danh nghĩa theo điều 1672 này thì thẩm phán được coi
là vô thẩm quyền. Tuy nhiên, đây chỉ là vô thẩm quyền tương đối. Bản án xử bởi
thẩm phán vô thẩm quyền tương đối thì vẫn có giá trị (đ. 1407§2). Khi xử bởi
thẩm phán vô thẩm quyền tuyệt đối thì bản không có giá trị (đ. 1406). Sự “vô
thẩm quyền tuyệt đối” được nhận biết khi có luật quy định một cách “minh nhiên”
là như vậy (xem thêm điều 10 về luật bãi hiệu hay bãi năng). Ví dụ như điều
1440, minh nhiên quy định “… thì thẩm phán tuyệt đối vô thẩm quyền”.
Hoặc điều 1406 nói: “…, các thẩm phán khác tuyệt đối không có thẩm
quyền”.
Khi nhận được xử bởi thẩm phán vô thẩm quyền tương đối, tức là thẩm phán không có được danh nghĩa nào trong ba danh nghĩa mà điều 1672 đã quy định, thì bị đơn có thể khước biện để phản đối. Tuy nhiên, khước biện phải được giải quyết trước giai đoạn đối tụng (đ. 1459§2), nghĩa là trước giai đoạn thiết lập thể thức nghi vấn. Nếu khước biện này đưa ra sau đó hoặc vào lúc kháng án thì không được nhận xét xử.


Điều 1673§1 xác định quyền tư pháp riêng, trọn
vẹn của Giám Mục giáo phận trong Giáo Hội địa phương. Ngài có thể đích thân xét
xử vụ án hoặc nhờ những người khác thi hành quyền xét xử (Đại Diện tư pháp, các
thẩm phán).
Tuy nhiên, khi sử dụng quyền tư pháp, Giám Mục cũng phải theo những quy tắc của luật tố tụng thì bản án mới có giá trị. Nếu Giám Mục, hoặc vị đại diện ngài như cha Tổng Đại Diện, hoặc một linh mục được ủy nhiệm, đứng ra xét xử vụ án vô hiệu hôn nhân theo một thủ tục nào đó tùy ý, hoặc theo thủ tục hành pháp thì bản án không có hiệu lực. Ví dụ Đức Giám Mục ủy thác một vụ án vô hiệu hôn nhân cho cha Tổng Đại Diện. Sau khi điều tra, cha Tổng Đại Diện ra sắc lệnh hay ra bản án tuyên bố hôn nhân vô hiệu. Bản tuyên bố này không có hiệu lực, vì ít nhất trong thủ tục đã không có sự tham dự của bảo hệ viên, người đưa ra ý kiến bảo vệ cho dây hôn phối, chống lại sự tháo gỡ.
Luật mới có nói đến thủ tục tư pháp (không phải là hành pháp) ngắn gọn hơn
trước Giám Mục (đ.1683-1687). Điều này không có nghĩa là bây giờ Giáo luật mới
ban cho Giám Mục quyền tư pháp hay quyền thẩm phán. Giám Mục giáo phận, do
chính chức vụ của ngài, đã có quyền xét xử tư pháp. Trong các vụ án thông
thường ngài ủy thác cho Đại Diện tư pháp và các thẩm phán xét xử. Tuy nhiên,
đối với thủ tục mới ngắn gọn, được xử bởi một thẩm phán trong thời gian rất
ngắn có thể bị lạm dụng hay luật bị lơi lỏng, luật có ý buộc Giám Mục phải đứng
ra làm thẩm phán để bảo đảm cho vụ án được xét xử đúng đắn, nghiêm chỉnh.
Điều 1673§2 quy định một điều mới là ban cho Giám mục
“năng quyền” (facoltà, faculty) xúc tiến (accelere) vụ án vô hiệu hôn nhân tại
giáo phận khác. Trong khi đó, theo nguyên tắc chung của tố tụng, một tòa án chỉ
có quyền được yêu cầu tòa án khác giúp thẩm vấn (đ. 1418). Theo luật mới riêng
cho vụ án vô hiệu hôn nhân, khi Giám Mục không thể thiết lập tòa án trong giáo
phận thì ngài có năng quyền liên hệ với tòa giáo phận bên cạnh hay liên giáo
phận để tiến hành vụ án. Và vì ngài có năng quyền nên tòa án giáo phận khác
cũng phải tôn trọng để tiến hành xét xử giúp. Trong trường hợp này Giám Mục
giáo phận cần viết một sắc lệnh (văn thư) ủy thác thẩm quyền mình cho tòa án
giáo phận hay liên giáo phận ở lân cận để xử giúp vụ án. Sự ủy quyền này có thể
là quyền tổng quát cho nhiều vụ án hoặc cho từng vụ án.[4]
Tuy nhiên, Tòa
Thánh vẫn đòi hỏi, nếu trong các giáo phận không có tòa án riêng, Giám Mục phải
lo liệu càng sớm càng tốt để đào tạo những nhân sự có khả năng làm việc trong
tòa án, kể cả qua những khóa đào tạo thường xuyên và liên tục.[5]
Những nhân sự có khả năng này có thể được bổ nhiệm làm
thẩm phán không, trong khi điều 1421§3 có quy định: “Các thẩm phán phải có
thanh danh và có bằng tiến sĩ hay ít nhất là cử nhân giáo luật”? Đã có lầm
tưởng rằng, chỉ có những người có văn bằng bằng tiến sĩ hay ít nhất là cử nhân
giáo luật mới được bổ nhiệm làm thẩm phán. Hệ quả sự hiểu lầm này là có những
Giáo phận không dám thiết lập tòa án hôn phối vì không có nhân sự có văn bằng
như luật đòi hỏi.
Thực ra, quy định của điều 1421§3 nói trên không là
một điều bắt buộc. Nó chỉ là một đòi hỏi, một sự cần thiết, hay một điều nên
có. Động từ "phải có" được dịch từ chữ sint trong
câu văn Latin là một động từ ở bàng thái cách hay giả định cách (subjunctive
mood), không biểu tỏ một sự xác định hay bắt buộc.
Tuy nhiên, quy định có bằng tiến sĩ hay ít nhất là cử
nhân giáo luật lại là điều bắt buộc đối với chức vụ Đại diện tư pháp hay phó
Đại diện tư pháp. Điều 1420§4 quy định: "Đại diện tư pháp cũng như các phó
đại diện tư pháp phải là tư tế có thanh danh có bằng tiến sĩ hay ít nhất cử
nhân Giáo luật, và không dưới ba mươi tuổi". Động từ "phải là"
được dịch từ chữ esse debent trong câu văn Latin ở thể chỉ
định cách (indicative mood), biểu tỏ một sự bắt buộc. Sự vi phạm quy định này
là lỗi luật. Tuy vậy, nếu có vi phạm thì cũng không làm cho sự bổ nhiệm vào
chức vụ này vô hiệu, do đây không là một luật bãi hiệu hay bãi năng (đ.10).
Điều 1673§3 vẫn giữ nguyên quy định tòa án hiệp
đoàn ba thẩm phán để xử vụ án vô hiệu hôn nhân (đ.1425§1,1,b). Tuy nhiên luật
có đổi mới là cho phép Giám Mục có quyền đặt hai thẩm phán còn lại là giáo dân.
Trước đây, theo luật cũ, thì HĐGM mới có quyền đó (đ. 1421).
Vị chánh án không buộc phải là Đại Diện Tư pháp, nhưng
có thể là một thẩm phán giáo sỹ, điều khiển vụ án. Trong trường hợp giáo phận
có nhiều hơn 3 thẩm phán, có thể luân phiên xử từng hiệp đoàn 3 thẩm phán cho
mỗi vụ, trong đó có một thẩm phán giáo sỹ được cử làm chánh án.
Trong các thủ tục khởi sự vụ án, Đại Diện tư pháp phải
thiết lập tòa án hiệp đoàn với tên những thẩm phán (đ.1676§3) được ghi trong
sắc lệnh thiết lập thể thức nghi vấn. Điều này cũng có ý là cho các bên biết để
họ có thể thực hiện quyền khước biện, chống lại thẩm phán nào vô thẩm quyền (ví
dụ thẩm phán có cùng huyết tộc hay thân thiết với một bên kiện, xem đ. 1448).
Điều 1673§4 cho phép Giám Mục giáo phận, khi không thể
lập tòa án hiệp đoàn ba thẩm phán, được quyền thiết lập tòa án một thẩm phán
duy nhất để xét xử vụ án vô hiệu hôn nhân. Thẩm phán này phải là giáo sĩ, không
được là giáo dân, được chỉ định tổng quát chung cho tất cả các vụ án hoặc riêng
cho từng vụ án một. Nếu có thể được, ngài bổ nhiệm thêm hai hội thẩm (assessor)
để phụ giúp.
Cũng nên phân biệt, theo nguyên tắc của tố tụng chung
cho các loại vụ án, thì khi không thể thiết lập tòa án hiệp đoàn, Hội Đồng Giám
Mục mới có thẩm quyền cho phép Giám Mục lập tòa án một thẩm phán giáo sĩ duy
nhất ở cấp I, và có thể bổ nhiệm thêm một hội thẩm (assessor) và một dự thẩm
(auditor) phụ giúp (đ.1425§4). Thẩm quyền được thiết lập một thẩm phán duy nhất
của Giám Mục theo luật mới chỉ áp dụng cho vụ án vô hiệu hôn nhân mà thôi. Còn
đối với các vụ án khác mà luật quy định phải xử với tòa án hiệp đoàn thì không
áp dụng được. Ví dụ, vụ án về dây ràng buộc do chức thánh, hoặc vụ án phạt sa
thải ra khỏi hàng giáo sĩ, hoặc tuyên bố hay tuyên kết vạ tuyệt thông, thì phải
được xử bởi tòa án hiệp đoàn ba thẩm phán (đ. 1425).
Nhiệm vụ của hội thẩm không được Giáo Luật định rõ là gì. Theo luật tòa án dân
sự thông thường thì hội thẩm không là thẩm phán nhưng là người có chuyên môn,
có thể giúp thẩm phán thẩm vấn, thu thập chứng cứ và có thể quyết định một số
thủ tục. Hội thẩm có thể giúp góp ý kiến về vụ án nhưng không có vai trò quyết
định bản án như thẩm phán. Hội thẩm có thể là giáo sĩ hay giáo dân.
Điều 1673§5 buộc tòa án cấp hai xử vụ án hôn nhân phải
là tòa án hiệp đoàn, cho dù cấp I đã được xử bởi một thẩm phán duy nhất. Nếu
không xử bởi tòa án hiệp đoàn, sự xét xử ở cấp II là không hữu hiệu hay vô giá
trị (null). Thẩm phán duy nhất mà xử cấp kháng án thì được coi là thẩm phán vô
thẩm quyền tuyệt đối.
Điều 1673§6 quy định việc kháng án được thực hiện từ
tòa án cấp một lên tòa án cấp hai của Tổng Giám Mục giáo tỉnh. Các tòa kháng
án, như Tòa Tổng Giám Mục phải tổ chức được tòa án hiệp đoàn ba thẩm phán.
Để giải quyết vấn đề Tòa Tổng Giám Mục giáo tỉnh không
đủ nhân sự để tổ chức được tòa án hiệp đoàn ba thẩm phán, HĐGM có thể thiết lập
một hay nhiều tòa cấp II với sự chuẩn y của Tông Tòa để xử kháng án cho nhiều
tòa án giáo phận khác nhau trong nhiều giáo tỉnh (đ. 1439§2).
Tổng Giám Mục, cũng có thể với sự đồng ý của các Giám
mục trong giáo tỉnh, xin Tông Tòa được chỉ định một tòa án khác trong hay ngoài
giáo tỉnh, cách cố định, đảm nhận xét xử kháng án cấp II cho các vụ án trong
các giáo phận thuộc giáo tỉnh.
Từ một tòa án cấp I liên giáo phận, được thiết lập bởi
nhiều Giám Mục với sự chuẩn y của Tông Tòa (đ. 1423), kháng án lên tòa cấp II
được HĐGM thiết lập với sự chuẩn y của Tông Tòa, trừ khi các giáo phận này đều
ở trong cùng một tổng giáo phận (đ. 1439§1).
Từ tòa Tổng Giám Mục giáo tỉnh kháng án lên tòa mà
Tổng Giám Mục chỉ định cách cố định với sự chuẩn y của Tông Tòa (đ. 1438§2).
Về thẩm quyền của tòa cấp II, phải theo nguyên tắc của
điều 1438 và 1439. Nếu không theo, thẩm phán tuyệt đối vô thẩm quyền (đ. 1440).
Bản án do thẩm phán đó sẽ không có giá trị.
TIẾT 2
QUYỀN KHÁNG NGHỊ HÔN NHÂN
Art. 2 - De iure impugnandi matrimonium
|
Can. 1674 §1. Habiles sunt ad
matrimonium impugnandum: 1° coniuges; 2° promotor iustitiae, cum
nullitas iam divulgata est, si matrimonium convalidari nequeat aut non
expediat. §2. Matrimonium quod, utroque
coniuge vivente, non fuit accusatum, post mortem alterutrius vel utriusque
coniugis accusari non potest, nisi quaestio de validitate sit praeiudicialis
ad aliam solvendam controversiam sive in foro canonico sive in foro civili. |
Điều 1674 §1. Những người có năng cách
kháng nghị hôn nhân là: §3. Nhưng nếu một người phối ngẫu chết trong khi vụ án chưa ngã ngũ,
thì phải giữ điều 1518. |
Điều 1674§1 quy định chỉ có người vợ hay người chồng
đã kết hôn với nhau và công tố viên mới có quyền thỉnh cầu tòa án xử vụ án vô
hiệu của hôn nhân.
Một người lương (không được rửa tội) hay tân tòng có
thể kháng nghị hôn nhân của mình trước tòa án Giáo Hội không? -Thông thường
Giáo Hội không xét xử hôn nhân giữa hai người lương. Tuy nhiên, nếu người ấy
xin, vì lý do liên quan đến hôn nhân Công Giáo sau đó thì Tòa án Giáo Hội vẫn
nhận xét xử.[8] Ví dụ như
trường hợp một người lương đã có vợ người lương và họ đã ly dị, anh ta có thể
xin tòa án Giáo Hội công bố sự bất thành hôn nhân của mình, để có thể tiến tới
kết hôn hay thành sự hóa hôn nhân với người nữ Công Giáo với miễn chuẩn khác
đạo.
Điều 1674 quy
định công tố viên có năng cách kháng nghị một hôn nhân khi sự bất thành đã trở
thành công khai (nullitas iam divulgata est). Chữ “công khai” (divulgata) này
thì khác ý nghĩa với chữ “công khai” (publicum) trong khái niệm ngăn trở công
khai (impedimentum publicum). Một ngăn trở công khai có nghĩa là ngăn trở có
thể chứng minh ở tòa ngoài, nghĩa là, có thể chỉ có một vài người biết và có
thể chứng minh. Nếu không thể chứng minh ở tòa ngoài, ngăn trở đó gọi là kín ẩn
(occultum). Trong khi đó, sự bất thành đã trở thành công khai (divulgata) có
nghĩa là đã được loan truyền cho nhiều người biết. Vì vậy, nếu chỉ có một số ít
người biết và có thể chứng minh một hôn nhân vô hiệu cũng chưa đủ điều kiện để
công tố viên kháng nghị hôn nhân đó.
Cũng chú ý là
luật chỉ đưa ra một quyền hay năng cách chứ không đòi buộc công tố viên phải
kháng nghị hôn nhân. Vì vậy, chỉ nên thực hiện kháng nghị hôn nhân khi công tố
viên thấy có hại đến công ích. Đôi khi có trường hợp hôn nhân đã được cử hành
bình thường và mọi người tưởng là đã thành sự. Đôi vợ chồng vẫn giữ đạo, chịu
các bí tích như bình thường. Nhưng sau đó, có loan tuyền cho biết đôi này có
ngăn trở khiến hôn nhân không thành sự, ví dụ như một bên đã có dây hôn phối,
hoặc có mối liên hệ huyết tộc. Nếu để tình trạng như vậy, giáo dân thấy đôi này
sống nghịch lại với Giáo luật, gây nguy hại cho công ích, công tố viên nên
kháng nghị hôn nhân, để buộc họ phải chia tay. Nếu họ không chịu chia tay, sống
rối hôn nhân, họ phải chịu chế tài bởi luật là không được rước lễ (đ. 915).
Khi nào thì hôn
nhân có thể hoặc không thể thành sự hóa (thành sự hóa đơn thuần, đ. 1156-1160;
hoặc điều trị tại căn, đ. 1161-1165)?
- Có thể
thành sự hóa nếu hôn nhân bị thiếu thể thức Giáo Luật hay vướng ngăn
trở tiêu hôn mà theo nguyên tắc luật là ngăn trở đó có thể được miễn chuẩn. Hôn
nhân đó có thể được thành sự hóa đơn thuần bằng việc miễn chuẩn ngăn trở và làm
lại sự ưng thuận kết hôn; hoặc có thể được điều trị tại căn, bao hàm việc chuẩn
ngăn trở và thể thức mà không làm lại sự ưng thuận kết hôn (đ. 1161-1165). Ví
dụ hôn nhân đã bị vô hiệu do có ngăn trở dị giáo và thiếu thể thức giáo luật,
do chỉ có kết hôn dân sự.
- Không
thể thành sự hóa nếu như hôn nhân bị vướng ngăn trở mà ngăn trở đó
theo luật quy định là không thể được miễn chuẩn. Ví dụ như ngăn trở: dây hôn
phối, họ máu hàng dọc, thì không thể được miễn chuẩn để được thành sự hóa hôn
nhân.
- Không
thích hợp nếu thành sự hóa có ý nghĩa như thế nào?
Đó là trường hợp mà theo quy tắc của luật thì có thể được thành sự hóa nhưng
không thích hợp vì chưa đủ điều kiện mục vụ tốt hay chưa đáp ứng đủ yêu cầu của
giáo luật để thành sự hóa. Hãy thử xét đến vấn đề miễn chuẩn và điều trị tại
căn hôn phối. Để được miễn chuẩn thì phải có lý do chính đáng. Nếu Đấng Bản
Quyền nhận thấy là không có đủ lý do chính đáng để miễn chuẩn thì ngài có thể
từ chối (đ.90). Để được điều trị tại căn thì phải biết chắc là đôi bên muốn duy
trì đời sống vợ chồng. Nếu thấy không chắc chắc là họ muốn duy trì đời sống vợ
chồng thì không cho điều trị tại căn (đ. 1161§3).
TIẾT 3
KHỞI SỰ VÀ THẨM
CỨU VỤ ÁN[9]
Art. 3 - De
causae introductione et instructione
Điều 1675 đổi
mới quy định của điều 1676 cũ. Theo luật cũ, trước khi nhận đơn, nếu có hy vọng
đạt kết quả tốt, thẩm phán phải khuyên nhủ vợ chồng tái lập đời sống chung nếu
có thể được. Theo đó, tuy hôn nhân đã đỗ vỡ và nếu vợ chồng có thể tái lập đời
sống chung mà một bên vẫn không chịu nghe theo lời khuyên nhủ, thì hôn nhân
cũng có thể được nhận xử. Luật mới quy định một cách rõ ràng hơn, là chỉ nhận
xét xử vụ án khi chắc chắn rằng hôn nhân đã đổ vỡ không còn sửa chữa được, đến
nỗi không thể tái lập đời sống chung vợ chồng. Luật mới có ý bảo trì đời sống
hôn nhân cách mạnh mẽ hơn.
Cũng nên phân biệt là luật không quy định khi hôn nhân tan vỡ tới mức độ hoàn
toàn mới được nhận xử, nhưng chỉ quy định tới một cách thức mà (in modo che,
such that), hoặc đến nỗi mà, không thể tái lập đời sống chung.
Một số hoàn cảnh khách quan không thể tái lập đời sống chung được thấy như: một trong hai vợ chồng đã tái hôn; xa cách địa lý như ở một quốc gia khác; khác biệt quá sức về tính tình hay cách sống được thể hiện qua những tật xấu (rượu chè, cờ bạc, rối loạn nhân cách…); bị thiếu sự phán đoán trầm trọng về nghĩa vụ trao ban cho nhau (đ. 1095,2; bản chất tâm lý không thể chu toàn nghĩa vụ hôn nhân (đ.1095,3); bị sốc tâm lý không thể tha thứ tội ngoại tình hay loạn luân nên không thể tái lập đời sống chung…


Điều 1676§1 quy
định Đại Diện tư pháp phải chấp đơn nếu xét đơn thấy, ngoài vấn đề thẩm quyền
của tòa án và quyền kháng nghị hôn nhân, có nền tảng nào đó, nghĩa là, thấy có
những sự kiện nào đó cách sơ khởi rằng vụ án có lý do mà theo nguyên tắc luật
nó có thể khiến hôn nhân vô hiệu. Ví dụ như bị sợ hãi (đ.1103), lầm lẫn (đ.
1097), thiếu phán đoán (đ. 1095,20), simulatio (đ.
1101§2)… khi kết hôn.
Trong thực tế
Việt Nam, vì người tín hữu còn không hiểu biết nhiều về lý do có thể khiến hôn
nhân vô hiệu, khi tư vấn, thẩm phán cần hỏi về hôn nhân của họ trong nhiều khía
cạnh hay sự kiện khác nhau, thì mới có thể giúp họ để tìm ra những lý do, làm
nền tảng cho việc đệ đơn và chấp đơn. Việc giúp này không có nghĩa là giúp họ
làm việc xấu, là chống lại sự bất khả phân ly của một hôn nhân hữu hiệu, nhưng
là giúp họ chứng minh cho một hôn nhân vô hiệu mà nay họ là một nạn nhân. Bản
nguyên tắc áp dụng tự sắc Mitis Iudex, khoản 2, hướng dẫn thực
hiện “việc điều tra tiền-tư-pháp hay mục vụ, bao gồm việc tiếp đón trong khung
cảnh giáo xứ hay giáo phận những tín hữu đã ly thân hay ly dị mà có nghi ngờ
hay xác tín hôn nhân của họ bất thành, là nhằm để biết tình trạng hôn phối của
họ và để thu thập những yếu tố hữu ích cho việc tiến hành tố tụng hôn nhân nếu
cần, hoặc theo thủ tục thông thường hoặc theo thủ tục ngắn gọn. Việc điều tra
sơ khởi này được thực hiện theo chương trình mục vụ hôn nhân đồng nhất trong
giáo phận”.
Điều 1676§1 quy
định Đại Diện tư pháp phải ra sắc lệnh đính kèm ở cuối chính cái đơn thỉnh cầu
và, truyền lệnh gởi bản copy cho bảo hệ viên. Do đó, trong mẫu đơn thỉnh
cầu (libellus) do tòa án soạn thảo, nên có phần dành riêng cho tòa án ở cuối
đơn xin, có ghi sẵn lệnh truyền của Đại Diện tư pháp và chỗ ký tên. Trong
trường hợp, nếu là đơn do nguyên đơn tự biên soạn, và nếu có bất tiện nếu buộc
nguyên đơn phải viết lại đơn theo mẫu, thì Đại Diện tư pháp cũng có thể chấp
đơn đó và viết tay lệnh này vào cuối đơn xin và ký tên.
Đại Diện tư pháp cũng phải ra một sắc lệnh chấp đơn, trong đó có lệnh triệu tập bên bị đơn, nếu bị đơn đã không cùng ký đơn (đ. 1507, 1508). Bản sao của đơn thỉnh cầu được đính kèm với sắc lệnh đó như điều 1508 §2 đã có quy định: Đơn khởi tố phải đính kèm với lệnh triệu tập, trừ khi vì những lý do quan trọng, thẩm phán nhận thấy không cần cho bị cáo biết điều đó, trước khi người này cung khai tại tòa.
Triệu tập bị đơn để làm gì? - Triệu tập ở giai đoạn đầu được hiểu là việc thẩm
phán gọi đến hiện diện ở tòa án để trình bày ý kiến của mình về việc khiếu nại
hay tố cáo của nguyên đơn, hoặc không gọi đến tòa án nhưng yêu cầu có ý kiến
hay trả lời bằng văn bản. Triệu tập có mục đích là để cho hai bên cùng với thẩm
phán thỏa thuận với nhau để xác định đối tượng chính yếu mà họ tranh tụng. Vì
vậy, triệu tập có mục đích là nối kết các ý kiến tranh chấp để thiết lập đối
tượng cho việc xét xử tòa án.
Theo ngôn từ của
tố tụng, khi thẩm phán ra sắc lệnh ấn định thể thức nghi vấn, tức là thẩm phán
thực hiện việc “đối tụng”, nghĩa là, thẩm phán ấn định những đối tượng chính
yếu, được gọi là những tiêu điểm (termini)[9], hay chủ đề, hay đối tượng, của việc tranh tụng. Việc
ấn định này phải được rút ra từ những lời thỉnh cầu và những phúc đáp của các
bên (đ. 1513).
Triệu tập ở giai
đoạn này không có nghĩa là gọi đến để thẩm vấn. Phần thẩm vấn hay thu thập
chứng cứ sẽ được thực hiện ở giai đoạn kế tiếp, sau khi đã thiết lập được đối
tượng tranh tụng.
Trong lệnh triệu
tập, thẩm phán cho bị đơn biết về đơn và lý do kháng nghị hôn nhân của nguyên
đơn; cho phép bên bị đơn có ý kiến với thời hạn là 15 ngày.
Mãn thời hạn
này, hoặc nếu bị đơn không quan tâm hay không muốn đưa ra ý kiến, thì không chờ
mãn thời hạn, thẩm phán dựa vào ý kiến của nguyên đơn để thiết lập đối tượng vụ
án, được diễn tả bằng một thể thức nghi vấn. Ví dụ nghi vấn: “Có chắc chắn hôn
nhân của anh A và chị B cử hành ngày… tại… là vô hiệu, do anh A bị sợ hãi
nghiêm trọng nên đành kết hôn với chị B để giải thoát không, chiếu theo điều
1103?”.
Sau khi đã xác
định được thể thức nghi vấn, Đại Diện tư pháp quyết định vụ án phải được xử
theo thủ tục thông thường hay theo thủ tục ngắn gọn hơn theo những điều
1683-1687.
Nếu định xử vụ
án theo thủ tục thông thường, thì trong cùng sắc lệnh thiết lập thể thức nghi
vấn, Đại Diện tư pháp phải xác định là xử theo thủ tục thông thường hay theo
thủ tục ngắn gọn hơn và ấn định việc thiết lập tòa án với hiệp đoàn thẩm phán
hoặc với một thẩm phán duy nhất. Danh sách các các thẩm phán bảo hệ viên và lục
sự tham gia vụ án phải được ghi trong sắc lệnh. Sắc lệnh phải được thông báo
cho các bên và bảo hệ viên.
Nếu vụ án được
định xử theo thủ tục ngắn gọn hơn, sau khi thiết lập thể thức nghi vấn, thì
tiến hành theo điều 1685.
Điều 1676§5 quy
định thể thức nghi vấn phải xác định xem hôn nhân thành sự bị kháng nghị vì
luận cứ hoặc những luận cứ nền tảng nào. Có nhiều luận cứ nền tảng, được chia
làm ba loại, có thể làm cho hôn nhân bị hủy tiêu: ngăn trở tiêu hôn (đ.
1083-1094), thiếu thể thức (đ.1108…) và hà tỳ ưng thuận (đ. 1095-1107). Thể
thức nghi vấn, vì vậy, có thể nêu ra một lý do hoặc vài ba lý do tiêu hôn. Ví
dụ đưa ra nghi vấn tiêu hôn với hai lý do: 1-sợ hãi nghiêm trọng (1103);
2-thiếu phán đoán nghiêm trọng. Chỉ cần một trong các lý do tiêu hôn được thẩm
phán xác nhận là đã thực sự xảy ra thì bản án sẽ xác nhận sự vô hiệu của hôn
nhân. Thời hạn ra sắc
lệnh triệu tập là trong vòng 20 ngày, sau khi nhận đơn (đ. 1507§2). Nếu lệnh triệu
tập bị đơn không được thực hiện hoặc không được thông báo cách hợp lệ, các án
từ đều vô hiệu (đ.1511), do quyền bào chữa của bị đơn đã bị vi phạm. Bị đơn nào từ
chối không nhận giấy triệu tập, thì coi như đã được triệu tập cách hợp lệ (đ.
1510). Vì vậy, ngay khi
nhận đơn, thẩm phán liên lạc với bị đơn qua điện thoại, nếu bị đơn từ chối hay
không quan tâm đến vụ án hoặc không có ý kiến gì cả thì cũng coi như đã được
triệu tập. Thẩm phán không cần gởi sắc lệnh triệu tập cho bị đơn nữa. Khoản 13
của Quy Tắc hướng dẫn: “Nếu một bên đã tuyên bố từ chối không nhận bất cứ thông
tin nào liên quan đến vụ án, thì được hiểu là đã từ chối không nhận tờ sao bản
án. Trong trường hợp này, có thể chỉ trao cho người ấy phần quyết định của bản
án”.
Trong thực tế,
khi bị đơn là người lương hay là người tân tòng mà không có đức tin thì họ
thường đã tái hôn và không quan tâm gì đến vụ án. Đại Diện tư pháp nên ghi chú
sự không quan tâm và lý do vào cuối đơn thỉnh cầu, bên dưới lệnh truyền gởi bản
sao cho bảo hệ viên. Khi vụ án kết thúc, có thể trao hay không cần trao phần
quyết định của bản án cho bị đơn.
Trong trường hợp không tìm ra được địa chỉ hay số điện thoại của bị đơn thì phải xử lý làm sao, trong khi thỉnh cầu đơn buộc phải có địa chỉ của bị đơn, theo điều 1504? - Dignitas Connubii, Art. 13. 6 có quy định: “sau khi điều tra kỹ lưỡng mà không biết bị đơn ở đâu thì điều này phải được ghi nhận bằng văn bản trong hồ sơ vụ án”. Vì vậy, nên buộc nguyên đơn làm một văn bản trình bày hoàn cảnh lý do không tìm ra được địa chỉ hay số điện thoại bị đơn và ký nhận. Sau đó, thẩm phán xác nhận sự vắng mặt của bị đơn trong vụ án dựa trên lý do mà nguyên đơn đưa ra, và tiếp tục tiến hành vụ án. Nếu sau khi vụ án đã kết thúc, bị đơn xuất hiện và muốn kháng án, thì đương sự vẫn có tố quyền xin tiêu hủy bản án (đ. 1511).

Cách thức xử án
trong Giáo Hội có khác với cách thức của xã hội dân sự. Đó là không xử án trong
một buổi họp tại tòa án gồm đầy đủ các thành phần như: Các thẩm phán, Công Tố
viên, Bảo Hệ viên, Hội Thẩm, Luật sư… các bên trong vụ kiện, nhân chứng …. Cũng
không có sự tranh biện và dẫn chứng công khai giữa các bên tại tòa. Tiến trình
vụ án Giáo Hội được diễn ra âm thầm theo từng giai đoạn. Giai đoạn thu thập
chứng cứ thường phải được chấm dứt và sau đó đến giai đoạn công bố án từ (hồ sơ
vụ án) để bảo hệ viên, công tố viên, luật sư và các bên có ý kiến hoặc đề nghị
lấy thêm chứng cớ. Tiếp theo sau sắc lệnh kết thúc thẩm cứu và công bố án từ là
giai đoạn nghị án của các thẩm phán để có phán quyết cho vụ án. Một số trường
hợp riêng biệt có thể xử theo lối khẩu biện (đ. 1656-1670), gần giống như cách
thức tòa án xã hội dân sự, nhưng chúng phải được luật cho phép (đ. 1656§2). Các
vụ án vô hiệu hôn nhân bị cấm xử theo lối khẩu biện (đ. 1691).
Trong vụ án hôn
phối, điều 1677 quy định bảo hệ viên, các luật sư của các bên và cả công tố
viên, nếu các vị này tham gia tố tụng, đều có quyền hiện diện trong lúc thẩm
vấn và được xem các án từ, tức là được xem hồ sơ vụ án, ngay cả trước khi án từ
được công bố.
Thẩm vấn viên phải thẩm vấn riêng biệt các bên và các nhân chứng từng người
một. Các vị tham gia tố tụng nói trên có thể được tham dự để nghe thẩm vấn. Các
bên không được phép nghe hay tham dự các cuộc thẩm vấn của bên kia hay của nhân
chứng. Tuy nhiên, trong thủ tục ngắn gọn hơn, các bên được phép tham dự cuộc
thẩm vấn bên kia và các nhân chứng, trừ khi vì những hoàn cảnh nào đó, thẩm cứu
viên xét phải tiến hành cách khác.[10]
|
Can. 1678 §1. In causis de matrimonii
nullitate, confessio iudicialis et partium declarationes, testibus forte de
ipsarum partium credibilitate sustentae, vim plenae probationis habere
possunt, a iudice aestimandam perpensis omnibus indiciis et adminiculis, nisi
alia accedant elementa quae eas infirment. §2. In iisdem causis,
depositio unius testis plenam fidem facere potest, si agatur de teste qualificato
qui deponat de rebus ex officio gestis, aut rerum et personarum adiuncta id
suadeant. §3. In causis de impotentia
vel de consensus defectu propter mentis morbum vel anomaliam naturae
psychicae iudex unius periti vel plurium opera utatur, nisi ex adiunctis
inutilis evidenter appareat; in ceteris causis servetur praescriptum can.
1574. §4. Quoties in instructione
causae dubium valde probabile emerserit de non secuta matrimonii
consummatione, tribunal potest, auditis partibus, causam nullitatis
suspendere, instructionem complere pro dispensatione super rato, ac tandem
acta transmittere ad Sedem Apostolicam una cum petitione dispensationis ab
alterutro vel utroque coniuge et cum voto tribunalis et Episcopi. |
§1. Trong những vụ án hôn nhân bất
thành, lời tự thú tư pháp và những lời khai của các bên, mà sự đáng tin của
họ có thể được cũng cố bởi các nhân chứng, có thể được thẩm phán đánh giá là
có hiệu lực chứng minh đầy đủ, sau khi vị này đã cứu xét tất cả những dấu
hiệu và những yếu tố xác thực chúng, trừ khi có các yếu tố khác phủ nhận
chúng. §2. Trong những vụ án này, lời
khai của một nhân chứng duy nhất có thể đáng tin hoàn toàn, nếu đó là một
nhân chứng có phẩm cách cung khai về những điều được thực hiện theo chức vụ
của mình, hoặc những sự kiện về người và sự việc cho thấy điều đó. §3. Trong những vụ án về sự bất
lực hay về hà tì ưng thuận do bệnh tâm thần hoặc do những bất thường thuộc
bản chất tâm lý, thẩm phán phải nhờ đến sự giúp đỡ của một hay nhiều giám
định viên, trừ khi hoàn cảnh cho thấy rõ việc giám định là không cần thiết; còn
trong những vụ án khác, phải tuân giữ những quy định của điều 1574. §4. Mỗi khi thẩm cứu vụ án mà thấy
có một nghi vấn rất hữu lý về hôn nhân bất hoàn hợp, sau khi nghe ý kiến các
bên, tòa án có thể đình hoãn vụ án về sự bất thành, bổ túc việc thẩm cứu để
xin miễn chuẩn hôn nhân thành nhận, và sau đó chuyển những án từ đến Tông
Tòa, kèm theo đơn xin miễn chuẩn của một hay của hai người phối ngẫu, cùng
với ý kiến của tòa án mình và của Giám mục. |
Điều 1678 nêu ra
những yếu tố cần thiết để giúp thẩm phán đánh giá sự xác thực của những lời tự
thú tư pháp và của lời khai của các bên, của các nhân chứng khi thẩm vấn thu
thập các chứng cứ.
Lời tự thú tư pháp được điều 1535 định nghĩa: “Lời tự thú tư pháp
là lời thú nhận rằng một sự kiện liên quan đến chính đối tượng của vụ án đi
ngược lại quyền lợi riêng mình, do một bên nói miệng hoặc viết trên giấy tờ,
hoặc tự ý do thẩm phán hỏi cung, trước mặt thẩm phán có thẩm quyền”. Vì lời tự
thú đi ngược lại quyền lợi riêng mình, và nếu nó không liên quan đến công ích,
thì miễn chuẩn cho các đương sự khác khỏi phải trưng dẫn chứng cớ (đ.1536§1).
Điều 1678 mới
này đặt chung vào một điều khoản lời tự thú tư pháp và lời khai các bên. Lời
khai các bên, vì vậy được luật mới đẩy mạnh giá trị tin tưởng hơn,[11] do lời
khai nhân chứng để giúp xác thực của lời khai của các bên trong vụ án là điều
không bắt buộc phải có. Nếu có được các nhân chứng cũng cố sự xác thực thì càng
tốt nhưng trong những trường hợp khó khăn khiến không có nhân chứng thì lời
khai hay lời tự thú tư pháp cũng có thể là đủ để chứng minh, miễn là thẩm phán
đã thẩm định theo những quy tắc luật. Luật quy định
điều cần thiết để đánh giá sự thật là thẩm phán phải cứu xét tất cả những dấu
hiệu và những yếu tố mà thấy chúng giúp cũng cố sự xác thực và miễn là không
thấy có những yếu tố nào khác phủ nhận chúng, nghĩa là không thấy có những điều
sai lạc, bất hợp lý, bất tương hợp giữa các sự kiện… Chú ý là những yếu tố “phủ
nhận chúng” nói trong quy tắc luật này không có ý nghĩa phủ nhận một cách mạnh
mẽ như “bác bỏ”, “phi bác”… Bản Latin dùng chữ eas infirment có
nghĩa là làm chúng yếu đi (weeken them). Vì vậy, khi thấy có những yếu tố phủ
định nào đó, như thấy điều gì chưa hợp lý, hồ nghi tích cực thì thẩm phán không
được phép xác định được giá trị chứng minh đến mức “đầy đủ” của lời khai.
Ở một cực, nếu
một thẩm phán tự quy định rằng: lời khai là có giá trị chứng minh đầy đủ chỉ
khi nào thấy có những sự kiện khác phủ nhận ngược lại một cách mạnh mẽ hay rõ
ràng, thì thẩm phán này đã lơi lỏng hay dễ dãi trong việc xác nhận giá trị
chứng minh của lời khai. Ở cực khác, nếu một thẩm phán tự quy định rằng: lời
khai là có giá trị chứng minh đầy đủ chỉ khi nào không còn một hồ nghi nào cả,
dù là tiêu cực hay mơ hồ, thì thẩm phán này đã quá nghiêm khắc, đòi hỏi vượt
quá yêu cầu của luật.
Luật quy định
“có giá trị chứng minh đầy đủ” cũng hàm nghĩa rằng việc thiếu các nhân chứng
cũng có thể chấp nhận được. Điều có thể được bổ xung cho sự đánh giá sự thật là
việc nại đến các nhân chứng. Tuy nhiên, đừng hiểu lầm là việc nại đến nhân
chứng như một điều bắt buộc phải có để đánh giá lời khai hay tự thú của các bên
là đúng sự thật hoặc là có hiệu lực chứng minh đầy đủ. Do đó, trong một vụ án
hôn nhân, nếu có khó khăn, không thể tìm ra nhân chứng nào cả, chỉ có các lời
khai của các bên, thì thẩm phán cũng có thể chấp nhận thụ lý vụ án và có thể
tuyên bố sự vô hiệu của hôn nhân sau khi đã thẩm xét theo những quy tắc của
luật, xác nhận được giá trị chứng minh đầy đủ của lời khai của các bên.
Điều 1678 triệt
2 nói đến lời khai của nhân chứng. Trong vụ án thì cần đến các nhân chứng (đ.
1679), tuy không cần quá nhiều (đ. 1553). Tuy nhiên điều 1678 triệt 2 lại muốn
nói đến giá trị đáng tin của “một nhân chứng duy nhất”. Vấn đề được nêu ra là
nếu chỉ có một nhân chứng duy nhất mà thôi thì dựa vào những yếu tố nào để xác
thực lời khai là đúng sự thực hoàn toàn hay để tin tưởng hoàn toàn. Điều này
cũng hàm ý, khi thiếu nhân chứng thì cũng chấp nhận chỉ có một nhân chứng để
giúp nhận ra sự thật trong vụ án.
Nhân chứng đó
phải là có phẩm cách.[12] Theo
Tremblay (1983) nhân chứng có phẩm cách có 5 đặc điểm:
1. Có địa vị hoặc vai trò trong một cộng đoàn;
2. Biết các chi tiết của vấn đề đang xem xét;
3. Sẵn sàng cộng tác;
4. Có khả năng biện chứng, nghĩa là khả năng giao tiếp đúng đắn và phối hợp
5. Công bằng, không thiên vị.
Điều kế tiếp cần
thiết là người ấy cung khai về những sự việc được thực hiện theo chức vụ của
mình. Ví dụ cha sở cho biết về chi tiết việc cử hành hôn phối; bác sĩ cho biết
về tình trạng bệnh tật của bệnh nhân …
Ngoài ra, sự hợp
lý giữa những sự kiện hay hoàn cảnh về người và sự việc có giá trị thuyết phục
giúp thẩm phán thấy rằng lời khai đủ đáng tin.
Khi so sánh hai
điều khoản về lời khai của hai bên và lời khai của nhân chứng duy nhất thì
chúng ta thấy có một chút khác biệt trong kiểu nói rất tinh tế của Giáo luật.
Đối với lời khai của các bên, luật dùng kiểu nói: “có hiệu lực chứng minh đầy
đủ”, nhưng đối với lời khai của nhân chứng thì lại nói: “có thể đáng tin hoàn
toàn”.
Đối với các bên,
họ cần chứng minh cho sự hữu hiệu hay vô hiệu của hôn nhân. Phần lớn các vụ án
hôn phối, sự vô hiệu là do hà tỳ ưng thuận. Sự ưng thuận lại là một hành vi bên
trong tâm trí, có tính chủ quan và riêng tư mà những người khác khó có thể biết
được. Lời khai của các bên có thể diễn tả được những điều bên trong tâm tư này
và vì vậy có thể chứng tỏ được những điều mình khẳng định về sự ưng thuận kết
hôn.
Tuy nhiên, các
nhân chứng có thể chứng kiến, nghe nói về hôn nhân của người khác và họ có thể
có những chứng thực đáng tin. Họ có thể đáng tin hoàn toàn, nhưng lại không
chứng minh được hoàn toàn trong vụ án vô hiệu do sự hà tỳ ưng thuận. Lý do là
họ khó có thể hiểu thấu được ý muốn, tâm tư của người kết hôn. Do đó luật không
nói lời chứng là có giá trị chứng minh đầy đủ nhưng chỉ nói nó đáng tin và ngay
cả là đáng tin hoàn toàn.
Ví dụ người đi
dự đám cưới làm chứng rằng cô dâu rất vui vẻ không có gì là bị ép buộc hay sợ
hãi khi kết hôn. Cô dâu lại cho biết cô bị cha mẹ ép buộc nên sợ quá đành kết
hôn. Tuy nhiên cô cố dấu nỗi buồn bên trong, gượng ép vui vẻ bên ngoài. Sự kiện
bên ngoài mà nhân chứng nghe thấy có thể không phản ảnh đúng với sự ưng thuận
bên trong của các bên. Lời khai của cô dâu có thể có giá trị chứng tỏ đầy đủ
nếu như thẩm phán đã đánh giá theo những yêu cầu của luật nêu ra, tức là xem
xét tất cả những dấu chỉ, những yếu tố giúp cũng cố sự xác thực của lời khai
của cô và cũng không thấy có những yếu tố nào phủ nhận chống lại lời khai đó.
Nếu so sánh quy
định của triệt 2 này với nguyên quy tắc của điều 1573, chung cho các loại vụ
án, thì trong vụ án hôn nhân, lời khai của một nhân chứng duy nhất được dễ dàng
đón nhận là đáng tin hơn, được diễn tả qua lối nói tích cực: “Trong những vụ
án này, lời khai của một nhân chứng duy nhất có thể đáng tin hoàn toàn,
nếu đó là…”. Còn trong các vụ án khác thì theo quy tắc của điều 1573,
theo chiều hướng tiêu cực: “Lời khai của một nhân chứng duy nhất không thể
đáng tin hoàn toàn, trừ khi người đó là…”.
Triệt 3 quy định
phải có sự giám định của chuyên viên đối với các vụ án hà tỳ ưng thuận vì bệnh
tâm thần hay vụ án bị bất lực giao hợp. Tuy nhiên, nếu thẩm phán thấy rõ là
không cần thiết thì có thể miễn sự giám định.
Triệt 4 giữ
nguyên điều 1681 cũ, về việc có thể đình hoãn vụ án về sự bất thành, bổ túc
việc thẩm cứu để xin miễn chuẩn hôn nhân thành nhận (ratum). Hôn nhân này được
hiểu là hôn nhân mới được cử hành hữu hiệu nhưng chưa hoàn hợp (non-
consumatum). Luật đưa ra một khả năng giải quyết khác và để tùy các bên lựa
chọn. Do đó cần có ý kiến các bên. Riêng thẩm phán, nếu thấy trước rằng hôn
nhân không đủ lý do tiêu hôn thì nên khuyên đưa vụ án lên Tông Tòa để xin miễn
chuẩn hôn nhân chưa hoàn hợp. Nếu thấy có lý do mà có thể giải quyết bằng bản
án xác nhận hôn nhân vô hiệu thì nên tiếp tục xử vụ án tại tòa án địa phương để
cho thuận lợi hơn.
Theo khái niệm
mới của sự hôn nhân hoàn hợp in humano modo (trong cách thức
nhân bản) thì yếu tố tinh thần (nhận thức của lý trí và ý muốn tự do) rất quan
trọng trong việc thẩm định hành vi giao hợp vợ chồng là đã được hoàn thành hữu
hiệu không. Sự không hoàn hợp vì thiếu tính nhân bản theo bộ luật 1983 liên
quan rất nhiều đến ý muốn tự do kết hôn (bị cưỡng ép, lầm lẫn…). Vì thế, trong
trường hợp hôn nhân chưa hoàn hợp, rất dễ tìm thấy những yếu tố hà tỳ ưng thuận
để xử hôn nhân vô hiệu.
Tiết 4
BẢN ÁN, NHỮNG
KHÁNG NGHỊ VÀ THI HÀNH
Art. 4 - De
sententia, de eiusdem impugnationibus et exsecutione
|
Can. 1679 Sententia, quae matrimonii
nullitatem primum declaravit, elapsis terminis a cann. 1630-1633 ordinatis,
fit exsecutiva. |
Điều 1679 Bản án đầu tiên mà tuyên bố hôn
nhân là bất thành, sau khi đã mãn các thời hạn
được ấn định trong những điều 1630-1633, trở nên có hiệu lực thi hành. |
Bản án cấp một
không có hiệu lực ngay khi được tuyên bố nhưng chỉ sau khi không có kháng án.
Điều 1630 quy định thời hạn kháng án là 15 ngày hữu dụng, kể từ lúc nhận thông
báo. Quá thời hạn đó, bản án có hiệu lực thi hành. Nếu bản án là phủ
nhận (negative) sự bất thành của hôn nhân, thì không ai trong hai bên
được phép tiến tới một hôn nhân mới khác. Nếu bản án là xác nhận (affirrmative)
sự bất thành của hôn nhân, thì các bên được phép tiến tới một hôn nhân mới khác
hoặc thành sự hóa hôn nhân mình đang có.
Đây là một đổi
mới rất quan trọng của tự sắc Mitis Iudex của Đức Giáo hoàng
Phanxicô trong việc đơn giản hóa thủ tục tòa án hôn phối. Sự vô hiệu hôn phối
không còn phải trãi qua hai cấp xét xử. Điều đổi mới này giúp vượt qua khó khăn
của sự không thể tổ chức được tòa án cấp II ở một số Tổng Giáo phận và hạn chế
được sự kéo dài thời gian và công sức của một vụ án.


Trong
tiếng Việt kháng nghị bản án (impugnatio), thường được gọi chung là
kháng án hay kháng cáo (đ. 1680§1). Tuy nhiên, cách chính xác hơn, việc kháng
nghị bản án lên tòa kháng án thực hiện bằng hai cách khác nhau:
- Kháng án (apellatio);
- Khiếu tố sự vô
hiệu của bản án (querela nullitatis sententiae).
Cách thứ hai, tức là khiếu tố sự vô hiệu của bản án thì ít khi áp dụng.
Ngoài ra, một khi bản án đã có hiệu lực thi hành rồi thì cũng có thể thượng cầu
lên tòa cấp ba, là Tòa Rota Roma, bất kỳ lúc nào, để xin xử lại vụ án (pro
nova causae propositione; đ. 1681). Việc thượng cầu này không được gọi là
sự kháng án (apellatio).
Ba cách thức
kháng nghị bản án đó sẽ được lần lượt tìm hiểu.
1. Kháng án (apellatio)
Kháng án (apellatio)
thường hay xảy ra nhất, giúp bảo vệ công lý và quyền lợi cho các bên.
1. Nộp đơn kháng án
Giai đoạn nộp
đơn kháng án
Thông thường,
việc kháng án hay kháng cáo được thực hiện từ tòa án cấp một lên tòa kháng án
cấp hai của Tổng Giám mục giáo tỉnh (đ. 1673§6) và để xử hữu hiệu, tòa kháng
cáo phải xử với hiệp đoàn ba thẩm phán (đ. 1673§5).[1]
Về thủ tục kháng án, đơn không nộp thẳng lên tòa cấp
hai nhưng phải được nộp cho tòa án cấp một đã ban hành bản án trong thời hạn
nhất định là 15 ngày hữu dụng,[2] như điều 1630 quy định:
§1. Đơn kháng cáo phải được nộp
cho thẩm phán đã ban hành bản án trong thời hạn cưỡng định là mười lăm ngày hữu
dụng, kể từ lúc biết bản án được công bố.
§2. Nếu việc kháng cáo được trình
miệng, công chứng viên phải ghi lại việc kháng cáo ấy trên giấy tờ trước mặt
chính người kháng cáo.
Giai đoạn tiến
hành kháng án
Sau khi nộp đơn,
việc kháng án chuyển qua giai đoạn tiến hành kháng án. được tiến hành trước mặt
thẩm phán toà kháng cáo trong thời hạn một tháng, kể từ khi nộp đơn kháng cáo,
trừ khi thẩm phán ban hành bản án đã ấn định một thời gian dài hơn cho đương sự
để tiến hành việc kháng án (đ. 1633).[3]
Trong giai đoạn này tòa (cấp một) đã ra bản án phải lo
liệu để chuyển đơn và bản sao hồ sơ lên tòa kháng án (đ. 1634§3), trong đó, bản
sao của bản án không thể thiếu.
1.2. Quyền kháng án
Những người có quyền kháng cáo là bên nguyên đơn hay
bị đơn mà cảm thấy mình bị thiệt hại, cũng như công tố viên và bảo hệ viên (đ.
1680§1) khi thấy bản án bất công hoặc vi phạm luật. Vì vậy, bản án hoặc bản
công bố phán quyết luôn phải chỉ rõ những cách thức có thể được dùng để kháng
cáo (đ. 1614).
Tuy nhiên, để được nhận xử kháng án, người kháng cáo
cần phải chỉ ra lý do tại sao kháng cáo (đ. 1634§1). Lý do này, tất nhiên phải
liên quan đến những chứng cứ. Người kháng án phải nêu ra được những chứng cứ
hay sự kiện đã được thu thập bị sai sự thật; hoặc nêu ra những cứ mới có giá
trị đang được cứu xét. Người kháng án có thể nêu lên một cơ sở tiêu hôn mới đi
kèm với một số chứng cứ nào đó điều quy định một nền tảng cho sự chấp nhận
kháng cáo (đ. 1680§4).
1.3. Tiến hành xử kháng án
Tòa kháng án sẽ xem xét hồ sơ và tùy theo thủ tục quy
định đề nhận hay bác đơn kháng án hoặc đòi hỏi thêm những điều cần thiết để chu
toàn thủ tục.
Nếu kháng cáo "rõ ràng" chỉ là trì hoãn,
thì tòa án hiệp đoàn giải quyết nhanh chóng bằng một sắc lệnh xác nhận bản án
của tòa án cấp một, để chấm dứt vụ án (đ. 1680§2).
Nhưng nếu xét thấy kháng án "không rõ
ràng" chỉ là trì hoãn thì kháng án phải được chấp nhận. Trong
trường hợp này, tòa kháng án phải tiến hành thiết lập tòa án hiệp đoàn để xử và
xử cùng cách thức giống như ở tòa cấp một, tức là cũng phải tiến hành: chỉ định
bảo hệ viên, triệu tập, thiết lập thể thức nghi vấn, thu thập chứng cứ, công bố
án từ, nhận ý kiến của bảo hệ viên và luật sư và ban hành bản án. Cũng có thể
có những thích nghi cho thích hợp (đ.1680§3).
Về thể thức nghi vấn, nếu ở cấp kháng án người ta đưa
ra một cơ sở hay lý do mới khiến hôn nhân bất thành, thì tòa án có thể chấp
nhận lý do đó để thiết lập một thể thức nghi vấn tiêu hôn mới hoàn toàn hoặc bổ
xung thêm cho nghi vấn cũ, vì luật cho phép xét xử theo một hay những lý do
tiêu hôn (đ. 1680§4).
Khi xử kháng án, phải lưu ý đến những điều kiện thủ
tục tố tụng đòi phải giữ để các án từ hữu hiệu, nếu không bản án sẽ vô giá trị.
Một số trường hợp bản án cấp hai được tòa Rota Roma xét là vô giá trị, có thể
kể như: Chỉ xử với một thẩm phán duy nhất (đ. 1673§5); chỉ ra sắc lệnh đảo
ngược bản án cấp một mà không tiến hành cùng cách thức như toà cấp một.[4]
Kháng án chỉ là
trì hoãn?
Luật quy định:
nếu kháng cáo rõ ràng chỉ là trì hoãn, thì tòa án hiệp đoàn kể như
là bác đơn kháng cáo, vì nhanh chóng ra sắc lệnh xác nhận bản án của tòa án cấp
một, chấm dứt vụ án (đ. 1680§2).
Vậy, cụm từ "kháng án rõ ràng chỉ là trì hoãn" (appellatio
mere dilatoria evidenter appareat) có nghĩa là gì. Nó quả thật là không dễ
hiểu và có những giải thích khác nhau.
Trước tiên là
giải thích với chủ ý trì hoãn của người kháng cáo. Người này biết việc kháng án
sẽ làm ngưng lại hiệu lực bản án nên cố ý kháng án để làm trì hoãn hiệu quả thi
hành của một bản án, chiếu theo điều 1638: "Việc kháng cáo đình hoãn việc
thi hành bản án". Chủ ý làm trì hoãn này nhằm chống lại việc thi hành hiệu
quả của bản án, nghĩa là, chống lại bên kia kết hôn mới do bản án xác nhận hôn
nhân vô hiệu (affirmative).
Thật ra, việc
kháng án với chủ ý trì hoãn (chủ quan) như trên thì cũng có thể xảy ra nhưng
rất ít khi xảy ra. Sự trì hoãn này, thật ra, phải được hiểu theo quy luật tố
tụng (khách quan).
Theo điều 1638
nói trên: "Việc kháng cáo đình hoãn việc thi hành bản án", nghĩa là
các kháng án đều có tác dụng làm trì hoãn lại hiệu quả thi hành của bản án.
Nhưng nếu kháng án "rõ ràng chỉ là trì hoãn", thì tòa từ chối nhận xử
kháng án (đ. 1680§2). Ở đây, quy tắc này nói một cách nhấn mạnh từng chữ, nếu
kháng án "rõ ràng" "chỉ là" "trì hoãn"; nghĩa là
sự kháng án "không có một lý do hữu lý nào", nếu có xử cũng vô ích mà
chỉ làm trì hoãn hiệu quả thi hành bản án bản án mà thôi.
Vì vậy, tòa
kháng án sẽ bác đơn nếu thấy "rõ ràng" kháng án chỉ là trì
hoãn, nghĩa là, đơn không nêu ra được những lý do hay chứng cứ nào có cơ sở
pháp lý nào để có thể xét xử thì Tòa không nhận xử vụ án mà chỉ ra sắc lệnh xác
nhận bản án của tòa cấp một (đ. 1680§2).[5]
Điều 1634§1 quy định một nền tảng cho sự chấp nhận
kháng cáo. Đó là người kháng cáo cần phải chỉ ra lý do tại sao kháng cáo. Lý do
này, tất nhiên phải liên quan đến những chứng cứ. Người kháng án phải nêu ra
được những chứng cứ hay sự kiện đã được thu thập bị sai sự thật; hoặc nêu ra
những cứ mới có giá trị đang được cứu xét. Vì vậy, khi người kháng án chẳng có
thể có thể nêu lên một lý do hữu lý nào, cũng chẳng nêu ra được một cơ sở tiêu
hôn mới đi kèm với một số chứng cứ nào đó, thì việc kháng cáo "rõ
ràng" chỉ có tác dụng trì hoãn.
1.4. Chuyển lên Tòa Rota Roma
Nếu tòa kháng án nhận xử và ra phán quyết trái ngược
với phán quyết tòa cấp một thì vụ án sẽ được chuyển lên tòa cấp ba, tức là tòa
Rota Roma, để có phán quyết chung kết (đ. 1444§1).[6]
Nhưng nếu tòa
kháng án ra phán quyết giống như tòa cấp một thì theo luật chung, vụ án trở
thành vấn đề quyết tụng (la cosa passa in giudicato), nghĩa là vụ án đã
hoàn toàn xử xong (đ. 1641,10), không được kháng án nữa.
Tuy nhiên, vụ án
hôn nhân liên quan đến tình trạng nhân thân, thì không bao giờ trở thành vấn đề
quyết tụng (đ. 1643). Vì vậy, có thể thượng cầu lên tòa cấp ba Rota Roma để xin
xử lại [Xin xem phần trình bày tiếp theo sau].
2. Khiếu
tố sự vô hiệu của bản án
2.1. Ý
nghĩa
Quyền khiếu tố sự vô hiệu của bản án (diritto della querela di nulità contro la sentenza) có nghĩa là quyền được khiếu nại rằng bản án bị vô hiệu hay thất hiệu, với lý do tòa đã vi phạm những nguyên tắc luật tố tụng mà theo luật có thể khiến bản án bị vô hiệu, ví dụ như trường hợp bị đơn có thể khiếu nại rằng mình đã không được triệu tập hợp lệ (đ.1511) hoặc bãi bỏ quyền bào chữa (đ. 1511; đ. 1620,70).
Việc khiếu tố sự vô hiệu của bản án có khác với sự kháng cáo (appello).
Trong kháng cáo, bản án (sentence) cấp dưới không bị vô hiệu nhưng có
thể bị đảo ngược bởi tòa cấp trên. Trong khi đó, khiếu tố sự vô hiệu của bản án
nếu được thẩm phán xác nhận có sự vi phạm luật tố tụng mà sự vi phạm này theo
luật khiến cho bản án vô hiệu, thì thẩm phán phải ra một sắc lệnh (decretum)
tuyên bố bản án là vô hiệu hay vô giá trị.
Để khiếu tố sự
vô hiệu của bản án, cần chiếu theo luật tố tụng, được ấn định ở những điều 1620
và 1622 về những trường hợp bản án bị vô hiệu. Vì vậy, người khiếu tố thường là
bảo hệ viên, công tố viên, luật sư, hoặc đại diện hay bảo trợ có kiến thức về luật.
2.2.
Trường hợp bản án bị vô hiệu tuyệt đối
Những khiếm
khuyết hoặc vi phạm luật tố tụng của tòa án "khiến bản án bị vô
hiệu", không thể sửa chữa được, được điều 1620 kể như sau:
10 Bản
án được ban hành do một thẩm phán tuyệt đối vô thẩm quyền;
20 Bản
án được ban hành do một người không có quyền xét xử trong toà án đã giải quyết
vụ án;
30 Thẩm
phán đã ban hành bản án do tác dụng của bạo lực hay do sợ hãi nghiêm trọng;
40 Việc
xử án đã được tiến hành mà không có đơn thỉnh nguyện tư pháp, như đã nói ở điều
1501, hoặc không chống lại một bị cáo nào hết;
50 Bản
án được ban hành giữa các bên mà ít nhất là một bên không có tư cách ra hầu
toà;
60 Người
nào đó đã hành động nhân danh một người khác mà không được uỷ quyền hợp pháp;
70 Quyền
biện hộ của bên này hoặc của bên kia đã bị từ chối;
80 Sự tranh tụng đã không được phân xử, dù chỉ là một phần.
Trong trường hợp
bản án bị tiêu hủy không thể sửa chữa được này, việc khiếu tố tiêu huỷ bản án
có thể được nêu lên theo cách khước biện (nêu lên trong thời gian đang xét xử
vụ án), không giới hạn thời gian; còn theo cách khởi tố trước mặt thẩm phán đã
tuyên án, thì trong vòng mười năm kể từ ngày công bố bản án.
2.3.
Trường hợp bản án vô hiệu có thể sửa chữa được
Bản án bị vô
hiệu trong những trường hợp của điều 1620 nói trên được coi là vô hiệu tới mức
độ là hoàn toàn, không thể sửa chữa được. Còn ở mức độ vô hiệu mà có thể sửa
chữa được thì điều 1622 nêu lên trong những trường hợp sau:
10 Bản
án được ban hành do một số không hợp lệ của các thẩm phán, trái với những quy
định của điều 1425§1.
20 Bản
án không viện dẫn các lý lẽ hay lý do quyết định;
30 Bản án thiếu những chữ ký mà luật đòi phải có;
40 Bản
án không ghi rõ ngày, tháng, năm và nơi ban hành;
50 Bản
án dựa trên một án từ tư pháp vô hiệu, và sự vô hiệu đó không được sửa chữa
chiếu theo quy tắc của điều 1619;
60 Bản
án được ban hành chống lại một đương sự vắng mặt cách hợp pháp, chiếu theo điều
1593§2.
Cũng tương tự
như những trường hợp của điều 1620, khiếu tố sự vô hiệu của bản án nói ở điều
1622 có thể được nêu lên theo cách khước biện vào bất cứ giai đoạn nào trong
thời gian xét xử. Còn nếu bản án đã được tuyên bố thì được phép khiếu tố trước
thẩm phán đã tuyên án trong vòng ba tháng kể từ ngày công bố bản án (đ. 1623).
3.
Thượng cầu lên cấp ba
Nếu một bản án
đã được công bố và có hiệu lực thi hành, ví dụ như cấp một và cấp hai đều phủ
quyết sự vô hiệu của hôn nhân, các bên có thể thượng cầu (si può ricorrere)
toà án cấp ba bất kỳ lúc nào để xin xử lại vụ án (per la nuova proposizione
della causa),[7] chiếu theo
quy tắc của điều 1644. Tuy nhiên, bên thượng cầu phải trưng ra được những chứng
cứ mới hay những lý do mới và quan trọng trong thời hạn nhất định là ba mươi
ngày, kể từ ngày nộp đơn kháng nghị (đ. 1681).
Việc thượng cầu lên toà án cấp cao hơn để xin xử lại vụ án không đình hoãn việc thi hành bản án, trừ khi luật đã dự liệu cách khác (đ. 1644§2). Tuy nhiên, nên lưu ý rằng, một khi bản án đã có hiệu lực thi hành và một bên đã cử hành hôn nhân mới theo thể thức giáo luật rồi thì Tòa Rota sẽ không nhận xử lại vụ án nữa, trừ khi thấy rõ ràng là bản án bất công.[8]

Thượng
cầu lên cấp ba
Nếu một bản án
đã được công bố và có hiệu lực thi hành, ví dụ như cấp một và cấp hai đều phủ
quyết sự vô hiệu của hôn nhân, các bên có thể thượng cầu (si può ricorrere)
toà án cấp ba bất kỳ lúc nào để xin xử lại vụ án (per la nuova proposizione
della causa),[7] chiếu theo
quy tắc của điều 1644. Tuy nhiên, bên thượng cầu phải trưng ra được những chứng
cứ mới hay những lý do mới và quan trọng trong thời hạn nhất định là ba mươi
ngày, kể từ ngày nộp đơn kháng nghị (đ. 1681).
Việc thượng cầu lên toà án cấp cao hơn để xin xử lại
vụ án không đình hoãn việc thi hành bản án, trừ khi luật đã dự liệu cách khác
(đ. 1644§2). Tuy nhiên, nên lưu ý rằng, một khi bản án đã có hiệu lực thi hành
và một bên đã cử hành hôn nhân mới theo thể thức giáo luật rồi thì Tòa Rota sẽ
không nhận xử lại vụ án nữa, trừ khi thấy rõ ràng là bản án bất công.[8]
|
Can. 1682 §1. Postquam sententia, quae
matrimonii nullitatem declaraverit, facta est exsecutiva, partes quarum
matrimonium declaratum est nullum, possunt novas nuptias contrahere, nisi
vetito ipsi sententiae apposito vel ab Ordinario loci statuto id prohibeatur. §2. Statim ac sententia facta
est exsecutiva, Vicarius iudicialis debet eandem notificare Ordinario loci in
quo matrimonium celebratum est. Is autem curare debet ut quam primum de
decreta nullitate matrimonii et de vetitis forte statutis in matrimoniorum et
baptizatorum libris mentio fiat. |
Điều 1682 §1. Sau khi bản án tuyên bố
hôn nhân bất thành có hiệu lực thi hành, thì những người mà hôn nhân của họ
được tuyên bố là bất thành có thể tái hôn, trừ khi lệnh cấm tái hôn
được kèm thêm vào chính bản án hoặc được ấn định bởi Đấng
Bản Quyền địa phương. §2. Ngay sau khi bản án có
hiệu lực thi hành, vị Đại Diện Tư pháp phải thông báo bản án đó cho Đấng Bản
Quyền địa phương nơi hôn nhân đã được cử hành. Vị này phải lo liệu, sớm hết
sức, để quyết định về hôn nhân bất thành và những lệnh cấm kèm theo, nếu có,
được ghi chú vào sổ hôn phối và sổ rửa tội. |
Điều 1682§1 quy
định về hiệu lực của bản án. Khi bản án xác nhận (affirmative) sự vô hiệu của
hôn nhân, tức là xác nhận giữa hai bên không hề có sự kết hôn hữu hiệu, hay
không hề có dây ràng buộc hôn phối, họ không bị ngăn trở dây hôn phối, và có
quyền được kết hôn mới.
Đôi khi bản án
có thể có kèm theo lệnh cấm hôn hoặc lệnh này được Đấng Bản Quyền địa phương
ban hành. Trong vụ án hôn phối, lệnh cấm hôn thường được áp dụng trong một số
trường hợp, đối với người thiếu khả năng kết hôn theo điều 1095, số 2&3
hoặc đối với người lừa gạt (đ. 1098). Theo quy tắc của điều 1077, lệnh cấm hôn
phải được ban hành có hạn chế trong một thời gian mà thôi, vì một lý do nghiêm
trọng và bao lâu lý do ấy còn kéo dài.
Một bản án do
tòa án giáo phận khi có hiệu lực ban hành thì không thể bị phủ nhận, cho dù
được ban hành tại một Tòa án bất cứ ở quốc gia nào hoặc có sự hoài nghi về sự
xét xử của tòa án đó. Để phủ nhận hay chống lại một bản án thì phải thực hiện
theo thủ tục pháp lý quy định. Đó là kháng tố chống lại sự hữu hiệu của bản án
(querela di nullità della sentenza).
Điều 1682§2 quy
định bổn phận phải gởi giấy thông báo cho việc ghi chú vào sổ rửa tội và hôn
phối. Gởi cho Đấng Bản Quyền địa phương nào cũng là một vấn đề được đặt ra.
Luật chỉ quy định là cho Đấng Bản Quyền nơi hôn nhân đã được cử hành, không nói
là gởi cho Đấng Bản Quyền nơi các bên có cư sở hay bán cư sở. Theo quy đinh như
vậy, nếu hôn nhân đã được cử hành tại giáo phận, nơi tòa án xét xử, thì Giám
Mục có thể ủy thác cho đại Diện Tư pháp lo liệu việc thông báo đến các cha sở
để ghi sổ. Nếu hôn nhân đã được cử hành tại giáo phận khác, thì thẩm phán phải
thông báo bản án cho Đấng Bản Quyền ở giáo phận đó, để ngài lo liệu việc ghi
sổ.
Tiết 5
TỐ TỤNG HÔN NHÂN
NGẮN GỌN HƠN
TRƯỚC GIÁM MỤC
Art. 5 - De
processu matrimoniali breviore coram Episcopo
|
Can. 1683 Ipsi Episcopo dioecesano
competit iudicare causas de matrimonii nullitate processu breviore quoties: 1° petitio ab utroque
coniuge vel ab alterutro, altero consentiente, proponatur; 2° recurrant rerum
personarumque adiuncta, testimoniis vel instrumentis
suffulta, quae accuratiorem disquisitionem aut investigationem non exigant,
et nullitatem manifestam reddant. |
Điều 1683 Chính Giám Mục giáo phận có
thẩm quyền xét xử những vụ án hôn nhân bất thành với thủ tục ngắn gọn hơn mỗi
khi: 1° Đơn thỉnh cầu được cả
hai vợ chồng đệ trình hay do một trong hai bên, với sự đồng ý của bên kia; 2° Những hoàn cảnh về
người và sự việc diễn ra, được các chứng cớ hay tài liệu giúp chứng tỏ, cho
thấy rõ sự bất thành, mà không cần một cuộc điều tra hay thẩm cứu xác đáng
hơn. |
Điều 1683 quy
định hai điều kiện phải hội đủ để được xử theo thủ tục ngắn gọn hơn.
a- Đơn thỉnh cầu
phải được cả hai vựo chồng đệ trình hay do một trong hai bên với sự đồng ý
của bên kia.
Nếu như đơn xin
đã có chữ ký của cả hai bên thì được hiểu là do cả hai bên đệ trình. Nếu chỉ có
một chữ ký của nguyên đơn thì Đại Diện tư pháp có thể hỏi thêm ý kiến bên bị
đơn. Vấn đề chính là cả hai bên phải đồng ý được xử vụ án. Luật đòi phải được
cả hai người phối ngẫu đệ trình là do vấn đề bảo vệ quyền lợi của bên bị đơn.
Tòa án có chức năng bảo vệ công lý nên luôn luôn phải tôn trọng quyền lợi của
cả hai bên và cho họ có quyền biện hộ. Một vụ án được xử thì luôn luôn phải có
sự tham gia của bị đơn. Ít nhất họ phải được triệu tập, nghĩa là được thông báo
rằng bên nguyên đơn đã đệ đơn xin tiêu hôn và được tham gia ý kiến vào vụ án.
Khi được xử theo thủ tục ngắn gọn hơn thì vấn đề quyền lợi của các bên phải
được bảo đảm hơn và sự sẵn sàng cho vụ án được bình ổn và tiến triển là điều
cần thiết. Vì vậy điều kiện được đặt ra là phải có sự đồng ý xin tiêu hôn của
cả hai bên.
b- Những sự
kiện về người và về sự việc, được xác thực bởi các chứng cứ hoặc tài liệu mà
không cần phải điều tra hay thẩm cứu kỹ lưỡng hơn, và chúng phải làm cho sự bất
thành được sáng tỏ (đ. 1683,20).
Đây là yêu cầu
khác biệt chính yếu để được xử theo thủ tục ngắn gọn. Ngay từ lúc bắt đầu nhận
hồ sơ vụ án, vị Đại Diện tư pháp phải thấy sơ khởi rằng sự bất thành của hôn
nhân có thể xác nhận được nhờ qua các chứng cứ hay tài liệu tương đối đã đầy
đủ, mà không cần phải điều tra kỹ lưỡng hơn.
Nên chú ý là
điều 1683,20 còn minh định rằng các sự kiện về người và sự việc
đó phải làm cho sự vô hiệu được biểu lộ ra hay được sáng tỏ. Lý do là vì có
những sự kiện không có khả năng cho thấy được sự vô hiệu, cho dù được các tài
liệu hay chứng cớ đầy đủ, ví dụ sự kiện đơn thuần là ngoại tình, ly dị, bị mẹ
cha mẹ chồng bạc đãi, sống không hợp với nhau...
Ví dụ 1: sự kiện
một người đã bị bệnh tâm thần khi kết hôn, (a) đã có những chứng cứ và tài liệu
chứng tỏ anh đã có bệnh và được điều trị bệnh trước và sau kết hôn. (b) Bệnh
tâm thần làm cho kết ước hôn nhân vô hiệu chiếu theo điều 1095,30.
Ví dụ 2: Hôn
nhân bị thiếu thể thức do linh mục chứng hôn thiếu năng quyền chứng hôn. (a) Có
chứng cớ là linh mục đó không phải là cha sở và ngài cũng không được ủy quyền
chứng hôn. (b)Thiếu năng quyền mà chứng hôn thì hôn nhân vô hiệu, chiếu theo
điều 1108§1.
Có những sự kiện cũng có thể có (a) được các chứng cứ hoặc tài liệu xác
nhận, mà không cần phải điều tra hay thẩm cứu kỹ lưỡng hơn, nhưng nếu những sự
kiện đó không làm cho sự vô hiệu của hôn nhân được sáng tỏ thì cũng không được
xử được xử theo thủ tục ngắn gọn, và ngay cả không đủ nền tảng để được xử với
thủ tục thông thường.
Ví dụ: ngoại tình, có được những chứng cứ rõ ràng đầy đủ, nhưng tự nó lại không
làm cho hôn nhân vô hiệu; thiếu đức tin, tự nó không làm cho hôn nhân vô hiệu,
cho dù có được những chứng cứ rõ ràng đầy đủ; phá thai, tuy có được những chứng
cứ rõ ràng, nhưng sự kiện phá thai tự nó, lại không làm cho hôn nhân vô hiệu.
THĐGM hướng dẫn,
ở Quy tắc số 14§1:
Trong số những
sự kiện về người hay sự việc có thể cho phép tiến hành vụ án tuyên bố hôn nhân
bất thành qua tố tụng ngắn gọn theo các điều 1683-1687, được kể ví dụ như là:
thiếu đức tin khiến phát sinh sự giả hình (simulatio) trong ưng thuận hoặc sự
lầm lẫn chi phối vào ý chí, cuộc chung sống vợ chồng quá ngắn ngủi, thực
hiện phá thai cốt để ngăn cản việc sinh con, thường xuyên ngoan cố trong
mối liên hệ ngoài hôn nhân vào thời gian kết hôn hay một thời gian tiếp theo ngay sau
đó, gian ý dấu diếm vô sinh hay mắc một bệnh truyền nhiễm nghiêm trọng hay đã
có con từ một quan hệ trước hay tù tội, nguyên nhân kết hôn hoàn toàn xa lạ với
đời sống vợ chồng hay chủ yếu do người phụ nữ đã lỡ mang thai, bạo lực thể lý
buộc bên kia phải ưng thuận kết hôn, thiếu sử dụng trí khôn có giấy chứng nhận
của bác sĩ, v.v…[13]
Những ví dụ về
sự kiện mà có thể xử theo thủ tục ngắn gọn mà THĐGM nêu trên khá gây ngạc nhiên
cho nhiều người. Một số người hiểu lầm đây là những luật mới quy định về sự vô
hiệu của hôn nhân. Nghĩa là, tưởng rằng thiếu đức tin, phá thai … theo
luật mới là có thể làm cho hôn nhân vô hiệu. Một số người khác lại nghĩ rằng
đây là những hoàn cảnh được quy định để xử theo thủ tục ngắn gọn.
Tòa Thượng thẩm Roma, trong tập "Sussidio Applicativo del Motu pr. Mitis
Iudex Dominus Iesus” xuất bản tháng 1 năm 2016, xác định những sự kiện
về người và sự việc mà Nguyên tắc số 14§1 nêu ra không phải là những luật mới
về tiêu hôn, nhưng chúng là những yếu tố liên quan mật thiết đến sự ưng thuận
hôn nhân, mà có thể chứng tỏ cách dễ dàng từ những chứng cứ hay tài liệu.[14]
a- Thiếu
đức tin khiến phát sinh sự giả hình (simulatio) trong ưng thuận hoặc sự lầm lẫn
chi phối vào ý chí;
Sự thiếu đức tin
có làm cho bí tích hôn nhân vô hiệu không? Đã có nhiều lần trong Giáo Hội,
người ta đã từng nêu lên vấn đề này. Người ta lý luận: khi cử hành một Bí Tích
mà không có đức tin thì Bí Tích đó không hữu hiệu. Đức Giáo hoàng Phanxicô
trong diễn văn hằng năm trước các thẩm phán của tòa Thượng Thẩm Roma, ngày
22-1-2016 vừa qua đã tái khẳng định: “Phải xác định rõ ràng là phẩm chất đức
tin không là một điều kiện cốt yếu cho sự ưng thuận hôn nhân”. Sự ưng thuận hôn
nhân “theo giáo thuyết lâu đời, bị hà tỳ chỉ trong phạm vi tự nhiên”.
Tuy nhiên, sự
thiếu đức tin lại được chú trọng trong các vụ án vô hiệu hôn nhân. Lý do là sự
"thiếu đức tin" có thể là nguồn phát sinh sự "giả hình"
trong kết ước hôn nhân hoặc sự lầm lẫn chi phối vào ý chí.
Kết hôn Simulatio (giả
hình) là khái niệm thường được đề cập đến trong án lệ hôn nhân. Nó hệ tại bởi
sự có ý không muốn tuân giữ theo đúng những điều chính yếu của kết ước hôn
nhân. Chẳng hạn như khi kết ước thì thề chung thủy một vợ một chồng suốt đời
bất khả phân ly mà lại có ý giữ lại cho mình quyền hay khả thể sẽ có thể quan
hệ xác thịt với người thứ hai hoặc khả thể sẽ ly dị. Hoặc như kết hôn mà lại có
ý không sinh con gì cả; hoặc thề yêu thương nhau và tôn trọng nhau suốt đời mà
lại chỉ có ý lợi dụng tiền bạc. Một sự ưng thuận kết hôn "giả hình"
như vậy làm cho sự ưng thuận thành vô hiệu. Giáo Luật điều 1101§2 quy định:
"Nếu một bên hay cả hai bên bằng một hành vi tích cực của ý chí, loại
trừ chính hôn nhân, hoặc một yếu tố chính yếu nào, hoặc một đặc tính chính yếu
nào của hôn nhân thì họ kết hôn với nhau bất thành”.
Yếu tố chính
yếu, hoặc đặc tính chính yếu của hôn nhân, có thể kể như: sự sinh sản giáo dục
con cái (bonum prolis), sự đơn nhất chung thủy (bonum fidei), sự bất khả phân
ly, sự hiệp thông trao ban cho nhau trong cuộc sống hay thiện ích của hôn nhân
(bonum coniugum). Khi kết hôn mà đã có ý tích cực loại trừ hay
không tôn trọng những yếu tố này thì kết hôn vô hiệu.
Các nhà giáo
luật đều đã lưu ý rằng một người đã sống trong một nền văn hóa, tôn giáo mà chủ
trương cho ly dị tái hôn, đa thê, thì người đó khó có thể chấp nhận lề luật của
Công Giáo, và vì vậy họ dễ kết hôn giả hình. Đối với người Công Giáo có đức tin
thì dễ suy đoán rằng họ tôn trọng Giáo Luật và ít khi kết hôn giả hình, nhưng
đối với người không có đức tin thì sự giả hình dễ xảy ra hơn.
Mặt khác, có
những trường hợp thiếu đức tin lại bao gồm sự thiếu hiểu biết về chính hôn
nhân. Sự thiếu hiểu biết này, theo luật không nhất thiết loại trừ ưng sự thuận
(đ. 1100), nhưng nếu nó chi phối vào ý chí thì ưng thuận có thể bị hà tỳ và làm
cho hôn nhân vô hiệu (đ. 1099). Tòa Thượng thẩm Roma đã chiếu theo giáo huấn
của Đức Giáo hoàng Phanxicô, giải thích thêm về điều này như sau:
Sự bỏ hay mất
đức tin Kitô giáo (scristianizzazione) của xã hội ngày nay dẫn đến một sự
thiếu hiểu biết trầm trọng về chính hôn nhân, đến nỗi chi phối vào ý chí. Sự
khủng hoảng hôn nhân, vì vậy, trong từ căn gốc, không gì khác hơn là khủng
hoảng sự hiểu biết được khai sáng bởi đức tin.[15] Sự
đào tạo con người và văn hóa nhân bản chịu một ảnh hưởng mạnh mẽ đôi khi nhất
định của não trạng thế gian;[16] của
một niềm tin đóng kín trong thuyết chủ thể, đóng kín trong nội tại của lý lẽ và
cảm giác,[17] biểu
lộ sự khiếm khuyết là không thể có được sự hiểu biết đúng đắn về thiết chế hôn
nhân và những bổn phận thiết yếu của nó.
Điều này cũng
thường được gắn thêm một hạ tầng của sự yếu đuối mỏng manh về tâm lý và luân lý
của người kết hôn. Cách riêng, một số người trẻ hoặc thiếu trưởng thành có thể
đi xuống chỗ nhận biết hôn nhân thuần túy là một ân huệ tình yêu. Nó thúc đẩy
người kết ước hôn nhân tới một sự giả hình (simulatio) trong ưng thuận, nghĩa
là tới sự duy trì một não trạng riêng về sự kết hợp vĩnh viễn đó, hoặc sự loại
trừ nó.[18]
b- Cuộc chung
sống vợ chồng quá ngắn ngủi
Cuộc chung sống
vợ chồng quá ngắn ngủi là một sự kiện rất quan trọng biểu hiện cho nhiều lý do
tiêu hôn khác nhau.[19] Nó
có thể là:
- Bị ép buộc, sợ hãi nên đành kết hôn. Hôn nhân vô hiệu theo quy tắc của điều
1103 về sợ hãi. Vì miễn cưỡng kết hôn, không có tình yêu, cuộc sống trở nên
nặng nề, có nhiều xung đột nên dễ dàng chia tay sau thời gian ngắn.
- Loại trừ chính
hôn nhân. Một người có thể đã không muốn kết hôn, nhưng đã kết hôn để đạt được
một lợi ích khác, xa lạ với đời sống hôn nhân, ví dụ như kết hôn chỉ để được đi
nước ngoài và sau đó thì ly dị. Hôn nhân vô hiệu theo quy tắc của điều 1101#2 về
sự loại trừ chính hôn nhân hay kết hôn “giả hình” (simulatio).
- Thiếu phán
đoán hoặc bản chất tâm lý không thể chu toàn nghĩa vụ hôn nhân. Hôn nhân trong
trường hợp này là vô hiệu theo quy tắc của điều 1095. Đời sống hôn nhân bền
vững nhờ có sự hiệp thông với nhau và chu toàn nghĩa vụ trao ban cho nhau. Khi
không thể thực hiện nghĩa vụ đối với nhau do thiếu khả năng, như người có bệnh
đồng tính, rối loạn tình dục, tâm lý bất thường … thì hôn nhân cũng dễ dàng tan
vỡ sau thời gian ngắn.
- Kết hôn do lầm
lẫn hay lừa gạt… cũng dễ dẫn tới sự chia tay rất sớm sau kết hôn.
c- Thực
hiện phá thai để ngăn ngừa việc sinh con
Việc phá thai tự nó không làm cho hôn nhân vô hiệu. Tuy nhiên nếu sự phá thai
được thấy như một sự cố ý loại trừ sự sinh sản, hay thiện ích con cái. Đây là
một loại kết hôn giả hình theo quy tắc của điều 1101#2. Ngoài ra, việc duy trì
ngừa thai liên tục cố ý loại trừ sự sinh con vĩnh viễn với người vợ hay chồng
đang chung sống cũng làm cho kết ước hôn nhân vô hiệu.
Phá thai là một
tội rất nặng trong luân lý Kitô giáo. Nó có thể biểu lộ một sự thiếu đức tin
nơi phạm nhân. Như đã nói trên, sự thiếu đức tin lại có thể là nguồn phát sinh
sự kết hôn giả hình.[20]
d- Thường
xuyên ngoan cố trong mối liên hệ ngoài hôn nhân vào thời gian kết
hôn hay một thời gian tiếp theo ngay sau đó
Một người vẫn
còn tiếp tục liên hệ với người tình cũ ngay cả sau khi kết hôn với người khác
thì người đó đã loại trừ sự chung thủy hay đơn nhất một vợ một chồng của hôn
nhân. Nếu kết ước hôn nhân chính thức với một người làm vợ nhưng đồng thời vẫn
quan hệ với một người tình như một vợ thứ hai trong bóng tối, thì sự kiện đó
biểu hiện cho sự kết ước không thật lòng, có ý loại trừ sự đơn nhất chung thủy.
Hôn nhân, vì vậy, vô hiệu chiếu theo quy tắc của điều 1101#2.
e- Gian
ý (dolus) dấu diếm vô sinh hay mắc một bệnh truyền nhiễm nghiêm trọng hay
đã có con từ một quan hệ trước hay tù tội
Đây là một
trường hợp kết hôn vô hiệu bởi lầm lẫn do lừa gạt, chiếu theo quy tắc của điều
1098: Người kết hôn do bị lừa gạt về một tư cách nào đó của phía bên
kia, với chủ ý để mình ưng thuận và nếu tư cách ấy tự bản chất có thể làm xáo
trộn nghiêm trọng sự hiệp thông vợ chồng, thì hôn nhân bất thành.
Sự lầm lẫn do
bên kia dấu diếm một điều mà có thể gây xáo trộn đời sống vợ chồng như: vô
sinh, có con riêng, bệnh truyền nhiễm, tù tội, nợ nần nghiêm trọng … được coi
là có gian ý hay lừa dối khi kết hôn. Theo giáo thuyết Công Giáo, khi kết hôn,
đôi bạn sống hiệp thông với nhau trọn đời. Họ chung chia cả vận mệnh vui buồn,
hiện sinh của đời sống. Bởi vậy khi có những trở ngại cho sự hiệp thông này,
người kết hôn có bổn phận phải nói cho bên kia biết trước khi kết hôn. Nếu
không cho người bạn sắp kết hôn biết, thì được coi là gian ý hay lừa gạt để
được ưng nhận kết hôn và sự ưng thuận của bên lầm lẫn là bị hà tỳ. Vì vậy, kết
hôn vô hiệu do sự lầm lẫn theo quy tắc của điều 1098.
g- Nguyên nhân kết hôn hoàn toàn xa lạ với đời sống vợ chồng
Hôn nhân tự bản chất là cuộc sống hiệp thông hướng đến thiện ích của đôi bạn và
sinh sản giáo dục con cái. Mục đích hôn nhân phải đi theo đúng hướng này. Nếu
kết hôn vì mục đích hoàn toàn xa lạ như để lợi dụng xác thịt, tiền bạc, danh
lợi… thì kết hôn vô hiệu, chiếu theo quy tắc của điều 1101#2 về giả hình hoặc
điều 1095,20 về sự thiếu phán đoán.
h- Chủ
yếu do người phụ nữ đã lỡ mang thai
Lỡ mang thai nên
người nữ có thể đành phải kết hôn với người mình không muốn kết hôn; hoặc có
thể là người nam vì trách nhiệm, không muốn bỏ rơi đứa con mình cho người mẹ
ngoại đạo nên miễn cưỡng kết hôn. Những trường hợp này có thể biểu hiện một sự
hà tỳ trong tự do ưng thuận kết hôn do sợ hãi theo quy tắc của điều 1103.
i- Bạo lực thể
lý buộc bên kia phải ưng thuận kết hôn
Trường hợp này
khá rõ là kết hôn vô hiệu, chiếu theo điều 1103 về bạo lực và sợ hãi. Bạo lực
thể lý cũng có thể được chứng tỏ qua các tài liệu, như giấy chứng thương y
khoa, biên bản của nhân viên an ninh.[21]
k- Thiếu
sử dụng trí khôn có giấy chứng nhận của bác sĩ
Trường hợp này
khá rõ là kết hôn vô hiệu, chiếu theo quy tắc của điều 1095 về thiếu khả năng
kết hôn. Trong trường hợp có bệnh hay bất thường về tâm trí, thông thường phải
nhờ đến các chuyên gia giám định và được xử theo thủ tục thông thường. Tuy
nhiên, trong một số trường hợp nghiêm trọng, nếu có các tài liệu chứng minh
(giấy của viện tâm thần, của trai giam, toa thuốc) cùng với những chỉ dẫn khác
mà không có hồ nghi tích cực nào về sự vô hiệu hôn nhân thì có thể được xử theo
thủ tục ngắn gọn.[22]
Ghi chú
Các trường hợp
nói trên được bản Quy Tắc nêu ra như những ví dụ cho việc chấp nhận xử theo thủ
tục ngắn gọn trước Giám Mục. Tuy nhiên, chúng cũng là những trường hợp mà bình
thường vẫn được xử theo lối thông thường. Điểm khác biệt chính yếu là khi nhận
xử ngắn gọn, những chứng cứ hay tài liệu xác thực cho đối tượng xử án tương đối
đầy đủ mà không cần phải điều tra kỹ lưỡng thêm. Về mặt án lý, tức là những lý
thuyết giúp xác nhận sự vô hiệu thì không có gì khác nhau giữa lối xử ngắn gọn
và lối xử thông thường.
|
Can. 1684 Libellus quo processus brevior
introducitur, praeter ea quae in can. 1504 recensentur, debet: 1° facta quibus petitio
innititur breviter, integre et perspicue exponere; 2° probationes, quae statim a
iudice colligi possint, indicare; 3° documenta quibus petitio
innititur in adnexo exhibere. |
Điều 1684 Ngoài những điểm được nêu ra ở
điều 1504, đơn thỉnh cầu được xét xử theo thủ tục ngắn gọn hơn, phải: 1° trình bày vắn tắt, đầy
đủ và rõ ràng những sự kiện làm nền tảng cho sự thỉnh cầu; 2° chỉ ra các chứng cứ mà thẩm
phán có thể thu thập được ngay; 3° đính kèm những tài liệu
làm căn cứ cho việc thỉnh cầu. |
Điều 1684 nói
những điều cần phải có trong đơn khi xin được xét xử theo thủ tục ngắn gọn hơn.
Đơn phải hội đủ những điểm liệt kê ở điều 1504 về đơn khởi tố nói chung:
1. Khởi tố trước thẩm phán nào, yêu cầu điều gì, với ai;
2. Chỉ rõ là căn cứ vào luật nào, sự kiện nào, chứng cớ nào, ít là sơ lược để
chứng tỏ điều mình viện dẫn;
3. Chữ ký của nguyên đơn hay người đại diện, ngày ký, địa chỉ nhận các án từ.
4. Ghi rõ cư sở hay bán cư sở bị đơn.
Trong đơn xin để
được xử ngắn gọn, điều 1684,10 có quy định thêm cho điều số 2
của điều 1504 nói trên. Đó là phải trình bày vắn tắt, đầy đủ và rõ ràng những
sự kiện làm nền tảng cho sự thỉnh cầu. Điều 1684,20 lại đưa ra
thêm một yêu cầu mới: nêu ra các chứng cứ mà thẩm phán có thể thu thập được
ngay. Điều 1684,30 đòi đính kèm những tài liệu làm căn cứ cho
thỉnh cầu.
Thông thường,
trong thực tế cụ thể, để được xử ngắn gọn, nguyên đơn phải gặp gỡ trao đổi với
thẩm phán trước để thẩm phán thấy rằng họ có lý do cần thiết phải xử ngắn gọn
và phải cho thấy là có các chứng cứ tương đối đầy đủ, có thể thu thập được
ngay.
Việc quyết định chấp nhận xử theo thủ tục ngắn gọn hơn ngoài việc cần phải dựa
theo những quy tắc luật định về thủ tục còn phải tuân theo những tiêu chuẩn mục
vụ của Giám Mục đề ra.[23]

Điều 1685 quy
định rằng, sau khi nhận đơn, vị Đại diện tư pháp, trong bằng cùng một sắc lệnh
thực hiện các việc:
- Xác định thể
thức nghi vấn. Vì những sự kiện làm nền tảng cho sự thỉnh cầu đã được trình bày
vắn tắt, đầy đủ và rõ ràng, và cũng có sự đồng ý của bên bị đơn, nên thẩm phán
có thể ấn định ngay thể thức nghi vấn mà không cần phải triệu tập bị đơn để hỏi
ý kiến.
- Chỉ định thẩm
cứu viên (istructor) và hội thẩm (assessor). Thẩm cứu viên tức là người phụ
trách tiến hành vụ án, thu thập các chứng cứ (như một dự thẩm, auditor) và sau
đó chuyển chúng lên cho thẩm phán. Hội thẩm có thể được chỉ định để giúp những
công việc của thẩm cứu viên. Vị Đại diện tư pháp cũng có thể chỉ định chính
mình làm thẩm cứu viên.[24]
Vụ án ngắn gọn
có thể được tiến hành với tối thiểu 4 vị: Đại Diện tư pháp giữ nhiệm vụ thẩm
cứu viên; bảo hệ viên có nhiệm vụ đưa ra ý kiến bảo vệ dây hôn phối; lục sự giữ
vai trò thư ký, công chứng và soạn thảo một số văn bản; và Giám Mục với nhiệm
vụ Thẩm Phán.
-Triệu tập tất cả những ai tham dự vào một giai đoạn phải được tiến hành theo nguyên tắc điều 1686, gồm hai công đoạn: 1- thu thập chứng cứ; 2- ý kiến can thiệp của bảo hệ viên và luật sư nếu có. Những người được triệu tập tức là những người được thông báo để tham gia vào giai đoạn thẩm cứu vụ án và cho ý kiến. Người phải được thông báo là bảo hệ viên; hội thẩm, luật sư nếu có; các bên; các nhân chứng.
Đại Diện tư pháp có thể tự đặt mình làm thẩm cứu viên, tuy nhiên nếu là tòa án
liên giáo phận, hết sức có thể chỉ định thẩm cứu viên ở tại giáo phận gốc của
vụ án.[25]
Thẩm cứu viên có
thể được chọn là giáo sỹ hoặc giáo dân nổi bật về hạnh kiểm tốt, về khôn ngoan
và đạo lý (đ. 1428#2).
Các hội thẩm phải được Giám Mục chuẩn nhận đảm nhận nhiệm vụ này, có thể là
giáo sỹ hay giáo dân có đời sống liêm khiết (đ. 1424).[26]
Luật ấn định thời hạn tối đa là 30 ngày, kể từ lúc ra sắc lệnh, phải tiến hành
giai đoạn thu thập chứng cứ theo nguyên tắc điều 1686. Quy tắc hướng dẫn khoản
17 quy định: Khi ra lệnh triệu tập, các bên phải được thông báo để, ít là ba
ngày trước khi bắt đầu giai đoạn thẩm vấn, có thể đệ trình những lý chứng mà
dựa vào đó các các bên hay các nhân chứng được thẩm vấn, trừ khi những điểm này
đã được đính kèm vào thỉnh nguyện đơn.
Việc thẩm vấn
được thực hiện riêng từng người một, và chỉ có hội thẩm, bảo hệ viên, công tố
viên, luật sư … mới có quyền tham dự thẩm vấn (đ. 1677). Tuy nhiên, trong thủ
tục ngắn gọn, các bên được phép tham dự cuộc thẩm vấn bên kia và các nhân
chứng, trừ khi vì những hoàn cảnh nào đó, thẩm cứu viên xét phải tiến hành cách
khác.[27]
Thẩm cứu viên
phải tiến hành cách khác, nghĩa là không cho bên này được phép tham dự cuộc
thẩm vấn bên kia hoặc các nhân chứng. Vì nếu ngược lại, cho họ tham dự thì dễ
xảy ra sự bất đồng ý kiến hoặc kình cải lẫn nhau khi họ nghe nêu ra các khuyết
điểm của mình (bạo lực, cờ bạc, rượu chè, thiếu phán đoán, tâm lý bất thường,
gian dối …). Hoặc, nếu như trường hợp họ đồng thuận với nhau để khai gian dối thì thẩm
phán khó có thể kiểm chứng được. Vì vậy, việc cho phép một bên nghe lời khai
của bên kia hay nhân chứng cần được hạn chế.
Các câu trả lời của các bên và của các nhân chứng phải được công chứng viên ghi
lại bằng văn bản, nhưng một cách tóm tắt và chỉ ghi lại những gì liên quan chủ
yếu đến chính vấn đề hôn nhân đang bàn cãi.[28]
|
Can. 1686 Instructor una sessione,
quatenus fieri possit, probationes colligat et terminum quindecim dierum
statuat ad animadversiones pro vinculo et defensiones pro partibus, si quae
habeantur, exhibendas. |
Điều 1686 Thẩm cứu viên, phải cố gắng hết
sức thu thập các chứng cứ chỉ trong một phần vụ, và phải ấn định thời hạn
mười lăm ngày để trình các ý kiến bảo vệ dây hôn phối và biện hộ của các bên,
nếu có. |
Điều 1686 quy
định thẩm cứu viên, hết sức có thể, phải thu thập các chứng cớ trong một thời
hạn hay một giai đoạn (sessione). Vì thủ tục ngắn gọn có mục đích tự nó là
nhanh gọn, và các chứng cứ cũng đã sẵn sàng, không cần điều tra kỹ lưỡng thêm,
nên các cuộc thẩm vấn cần được thực hiện không nhiều, không kéo dài.[29]
Kế tiếp sau đó
là giai đoạn trình ý kiến của bảo hệ viên và bản biện hộ của các bên (hay do
luật sư) nếu có. Thời hạn cho trình ý kiến này tối đa là 15 ngày. Khi bản ý
kiến đã được trình thì có thể đệ trình hồ sơ vụ án lên Giám Mục để xem xét và
giải quyết vụ án, không cần đợi cho hết thời hạn 15 ngày.
|
Can. 1687 §1. Actis receptis, Episcopus
dioecesanus, collatis consiliis cum instructore et assessore, perpensisque
animadversionibus defensoris vinculi et, si quae habeantur, defensionibus
partium, si moralem certitudinem de matrimonii nullitate adipiscitur, sententiam
ferat. Secus causam ad ordinarium tramitem remittat. §2. Integer sententiae
textus, motivis expressis, quam citius partibus notificetur. §3. Adversus sententiam
Episcopi appellatio datur ad Metropolitam vel ad Rotam Romanam; si autem
sententia ab ipso Metropolita lata sit, appellatio datur ad antiquiorem
suffraganeum; et adversus sententiam alius Episcopi qui auctoritatem
superiorem infra Romanum Pontificem non habet, appellatio datur ad Episcopum
ab eodem stabiliter selectum. §4. Si appellatio mere
dilatoria evidenter appareat, Metropolita vel Episcopus de quo in §3, vel
Decanus Rotae Romanae, eam a limine decreto suo reiciat; si autem admissa
fuerit, causa ad ordinarium tramitem in altero gradu remittatur. |
Điều 1687 §1. Sau khi nhận được các án
từ, Giám Mục Giáo phận tham khảo ý kiến với thẩm cứu viên và hội thẩm, cân nhắc
các ý kiến của bảo hệ viên cũng như những lời biện hộ của các bên, nếu có, và
nếu thấy đạt đến sự chắc chắn luân lý về sự bất thành của hôn nhân, thì ngài
tuyên bố bản án. Nếu không, ngài phải chuyển vụ án về để xử theo thủ tục
thông thường.[30] §2. Toàn bộ nguyên văn bản án
có nêu các lý do phải được thông báo sớm hết sức cho các bên. §3. Kháng cáo chống lại
bản án của Giám Mục thì trình lên tòa án của Tổng Giám mục giáo tỉnh hay
lên Tòa Thượng Thẩm Roma; nếu bản án do Tổng Giám mục giáo tỉnh ban hành, thì
kháng cáo đưa lên tòa án của Giám Mục cao niên hơn trong giáo tỉnh; và kháng
cáo chống lại bản án của một Giám Mục mà không có bề trên nào dưới Đức Giáo
hoàng Roma, thì đưa lên tòa án của Giám Mục đã được ngài chỉ định cách cố
định. §4. Nếu thấy kháng án rõ ràng
chỉ là trì hoãn, Tổng Giám Mục giáo tỉnh hay Giám Mục nói ở §3, hoặc
Niên Trưởng tòa Thượng Thẩm Roma, phải ra sắc lệnh khước từ ngay từ đầu;
ngược lại, nếu kháng án được chấp nhận, thì gửi trả vụ án về xử ở cấp hai theo
thủ tục thông thường. |
Điều 1687§1 quy
định, Giám Mục giáo phận tham khảo ý kiến của thẩm cứu viên và hội thẩm, cân
nhắc các ý kiến của bảo hệ viên cũng như những biện hộ nếu có của các bên, và
nếu thấy đạt đến sự chắc chắn luân lý về sự bất thành của hôn nhân, thì ngài
tuyên bố bản án. Nếu thấy không chắc chắn ngài trả về cho Đại Diện Tư pháp để
xử theo thủ tục thông thường.
Sự chắc chắn luân lý (la certezza morale, moral certitude) là gì?
-Trong Giáo Luật, khái niệm này được thấy ở điều 1608: thẩm phán buộc phải có
sự chắc chắn luân lý khi tuyên án. Nó cũng được
thấy ở điều 1707§2: Giám mục phải có sự chắc chắc luân lý về
cái chết của người phối ngẫu khi tuyên bố nó.
Một chắc chắn
vật lý (physical certitude) đạt được do lý trí dựa trên những luật tự
nhiên, bất biến. Ví dụ chắc chắn rằng nước sôi ở 1000C ở điều kiện
bình thường. Sự chắc chắn như vậy được coi là hoàn toàn hay tuyệt đối. Sự chắc
chắn luân lý (moral certitude) thì không được chắc chắn như vậy, vì không dựa
trên những luật tự nhiên, bất biến nhưng dựa trên những quy luật nhân văn, có
thể thay đổi. Sự chắc chắn luân lý cũng được giải thích khác nhau tùy theo lãnh
vực thần học, hay triết lý, pháp lý… nhưng có điểm chung là nó không là sự chắc
chắc tuyệt đối như chắc chắc vật lý hay toán học.
Sự chắc chắn luân lý đã được Đức Pio XII nói đến trong diễn văn cho tòa Rota Romana ngày 1-10-1942. Ngài cho biết sự chắc chắn tuyệt đối (certezza assoluta) và sự chuẩn chắc chắn (quasi-certezza) là như hai cực của chắc chắn luân lý. Nghĩa là, chắc chắc luân lý có được không đòi có chứng minh không thể chối cải được (tuyệt đối) nhưng cũng không dễ dàng đạt được bởi chỉ dựa vào một vài sự kiện. Ngài nói: “Nó (chắc chắn luân lý), trong bình diện tích cực, được xác định từ sự loại trừ tất cả mọi nghi ngờ có căn cứ hay hữu lý và, xét như vậy, thì nó được phân biệt một cách chính yếu với sự chuẩn chắc chắc (quasi-certezza); và rồi trong bình diện tiêu cực, nó cho phép tồn tại thuần túy khả thể có sự mâu thuẩn, và qua đó nó được phân biệt với chắc chắc tuyệt đối.[31] Nghĩa là, trong sự chắc chắc tuyệt đối, thì tuyệt đối không được có khả thể nào là có sự mâu thuẩn hay nghịch lý, nhưng trong sự chắc chắn luân lý thì vẫn có thể có sự mâu thuẩn hay nghịch lý, xét ở mức độ thuần túy là khả thể. Sự chắc chắn luân lý chỉ đòi hỏi là không có sự nghi ngờ hay mâu thuẩn, nhưng chỉ ở mức độ thông thường chứ không ở mức độ tuyệt đối hoàn toàn là không có.
Bản Quy tắc hướng dẫn khoản 12 cũng nói: “Để đạt được sự chắc chắn luân lý cần thiết theo luật, thì sự trỗi vượt đáng kể của những chứng cớ và những dấu chỉ vẫn chưa đủ, mà còn phải hoàn toàn loại trừ bất cứ hoài nghi thận trọng tích cực nào là có thể sai lầm về luật cũng như về sự kiện, tuy vậy không loại trừ cái thuần túy khả thể có sự mâu thuẫn (ancorché non sia esclusa la mera possibilità del contrario)”.[32]
Theo những hướng dẫn trên, một sự chắc chắc luân lý đạt được phải do sự phán
đoán của chủ thể, sau khi đã cứu xét những sự kiện trong nhiều tình tiết của
nó, thấy có sự hữu lý hữu cơ giữa chúng mà không thấy có sự vô lý hay một chút
nghi ngờ tích cực nào. Tuy nhiên, đạt được một chắc chắc luân lý không là phải
đạt được một chắc chắc tới mức tuyệt đối, không còn một khả thể sai lầm nào.
Ví dụ như trong
vụ án tiêu hôn do bất lực không thể giao hợp, lời khai của một hay hai bên mà
thẩm phán nhận thấy đúng thật, được hoàn cảnh, lời khai của nhân chứng đáng tin
cũng cố, và không thấy có một chút nghi ngờ hay mâu thuẩn nào, thì đủ để thẩm
phán đạt được sự chắc chắc luân lý. Tuy nhiên, nếu thẩm phán đòi thêm bác sĩ
pháp y đáng tin chứng nhận rằng người nữ phải còn trinh để cho xác thực rằng họ
đã bất lực giao hợp, thì lúc đó thẩm phán đòi phải có sự chắc chắn, như là
tuyệt đối, vượt quá luật yêu cầu.
Sự chắc chắn
tuyệt đối là cực điểm của chắc chắn luân lý. Trong vụ án vô hiệu hôn phối,
không đòi thẩm phán phải có sự chắc chắc tuyệt đối đó. Ngược lại, nếu chỉ dựa
vào một số sự kiện rời rạc, chưa đủ sự đồng nhất hữu lý giữa chúng và còn có
những hồ nghi tích cực, thì đó chưa là có sự chắc chắn luân lý.
Điều 1687§2 quy
định, toàn bộ bản án với các lý do phải được thông báo sớm hết sức cho các bên.
Đây là quy định dành cho thủ tục ngắn gọn. Trong thủ tục xử thông thường không
có quy định là phải thông báo toàn bộ bản án. Tuy nhiên, Giám Mục giáo phận ấn định
cách thức tuyên bố bản án tùy theo sự khôn ngoan của mình.[33]
Bản án, được ký bởi Giám Mục với xác nhận của công chứng viên, phải trình bày
vắn tắt và mạch lạc những lý do dẫn đến quyết định, và thường phải được thông
báo cho các bên trong thời hạn một tháng kể từ ngày ra quyết định.[34]
Điều 1687§3 quy định về khả năng kháng án trong thủ tục xử ngắn gọn. Hầu như bản án có kết quả là “xác nhận” (affirmative) sự vô hiệu hôn nhân, vì khi không có được sự chắc chắn luân lý về sự vô hiệu thì thẩm phán Giám Mục đã trả vụ án về xử theo lối thông thường (đ.1687§1). Vậy nếu bản án là xác nhận hôn nhân bất thành thì người kháng án thường chỉ có thể là bảo hệ viên. Vị này, do sự khôn ngoan của mình, nếu thấy có sự vi phạm luật tố tụng hoặc thấy chưa có sự chắc chắn luân lý thì có thể kháng án. Đối với các bên thì khó có sự kháng án. Vì, ngay từ đầu khi nhận đơn, cả hai bên ký đơn hoặc đồng ý làm đơn. Điều này được giả thiết là cả hai bên đều muốn hôn nhân này được tuyên bố là vô hiệu. Nói chung, ít khi có sự kháng án khi vụ án được xử theo thủ tục ngắn gọn.
TIẾT 6
TỐ TỤNG DỰA TRÊN
TÀI LIỆU
Art. 6 - De
processu documentali
|
Can. 1688 Recepta petitione ad normam
can. 1676 proposita, Episcopus dioecesanus vel Vicarius iudicialis vel Iudex
designatus potest, praetermissis sollemnitatibus ordinarii processus sed
citatis partibus et cum interventu defensoris vinculi, matrimonii nullitatem
sententia declarare, si ex documento, quod nulli contradictioni vel
exceptioni sit obnoxium, certo constet de exsistentia impedimenti dirimentis
vel de defectu legitimae formae, dummodo pari certitudine pateat
dispensationem datam non esse, aut de defectu validi mandati procuratoris. |
Điều 1688. Sau khi đã nhận một đơn thỉnh
cầu chiếu theo quy tắc của điều 1676, Giám Mục giáo phận hay Đại Diện tư pháp
hoặc vị thẩm phán được chỉ định, bỏ qua những thể thức của tố tụng thông
thường, trừ việc triệu tập các bên ra tòa và sự can thiệp của bảo hệ viên, có
thể tuyên bố hôn nhân bất thành bằng một bản án, nếu có một tài liệu không
thể bị phản đối hay khước biện chứng minh rằng chắc chắn có một ngăn trở tiêu
hôn hay thiếu thể thức giáo luật, và nếu cũng thấy chắc chắn rằng ngăn trở đã
không được miễn chuẩn hoặc người đại diện đã không có ủy nhiệm thư hữu hiệu.[35] |
Điều 1688
này giữ nguyên quy định của điều 1686 cũ.
Tố tụng dựa trên tài liệu cũng là một tố tụng có tính đơn giản và ngắn gọn, đã
được áp dụng từ trước đây.
Thủ tục được coi
là đơn giản và ngắn gọn vì:
- được xử với
một thẩm phán chứ không bởi hiệp đoàn ba thẩm phán;
- bỏ qua một số
thủ tục thông thường;
- tuyên bố ngay
hôn nhân bất thành. (Trước đây cũng không cần đưa lên cấp hai để xác nhận bản
án).
Về điều kiện:
phải có tài liệu chân thực chứng minh sự bất thành của hôn nhân (vì có tài liệu
đủ để chứng minh sự vô hiệu nên thủ tục được rút ngắn).
Tuy nhiên, thủ tục xử theo tài liệu chỉ dùng để xử vụ án với lý do có ngăn trở tiêu hôn, thiếu thể thức (forma canonica), kết hôn qua người đại diện (đ. 1105). Thủ tục này không áp dụng cho lý do hà tỳ ưng thuận, như trong trường hợp hôn nhân vô hiệu do thiếu trưởng thành, sợ hãi, lầm lẫn... Trong khi đó, thủ tục ngắn gọn trước Giám Mục thì áp dụng cho tất cả các lý do trên miễn là có sự đồng ý của hai bên và có chứng cứ đầy đủ, mà không cần thẩm cứu nhiều thêm.
Điều 1689
giữ nguyên quy định của điều 1687 cũ.Bảo hệ viên, do sự khôn ngoan của mình,
nếu thấy có sự thiếu sót nào đó hoặc thấy các tài liệu là không chắc chắn thì
phải kháng án lên tòa cấp hai và phải thông báo bằng văn bản cho biết đó là một
tố tụng dựa trên tài liệu.
Bên cảm thấy
mình bị thiệt hại cũng có quyền kháng án.
|
Can. 1690 Iudex alterius
instantiae, cum interventu defensoris vinculi et auditis partibus, decernet
eodem modo, de quo in can. 1688, utrum sententia sit confirmanda, an potius
procedendum in causa sit iuxta ordinarium tramitem iuris; quo in casu eam
remittit ad tribunal primae instantiae. |
Điều 1690 Với sự can thiệp của bảo hệ
viên và sau khi nghe các bên, thẩm phán tòa án cấp hai phải quyết định cũng
một cách thức nói đến ở điều 1688, xem có phải xác nhận bản án hay không hoặc
có phải giải quyết vụ án theo cách thông thường của luật hay không, trong
trường hợp này, thẩm phán gởi trả vụ án về tòa án cấp một. |
Điều 1690 giữ nguyên quy định của điều 1688 cũ.
Ở tòa cấp hai, thẩm phán cũng xử theo thủ tục tài liệu. Nếu xét thấy thủ tục
theo điều 1688 đã được tuân giữ đầy đủ và tài liệu được trưng ra là chắc chắn
đúng thực thì thẩm phán sẽ xác nhận sự vô hiệu của hôn nhân; nếu không thì trả
về cấp một để xử theo thủ tục thông thường.
TIẾT 7
NHỮNG QUY TẮC
TỔNG QUÁT
Art. 7 - Normae
generales
|
Can. 1691 §1. In sententia partes
moneantur de obligationibus moralibus vel etiam civilibus, quibus forte
teneantur, altera erga alteram et erga prolem, ad sustentationem et
educationem praestandam. |
Điều 1691 §1. Trong bản án, phải nhắc
nhở cho các bên biết những nghĩa vụ luân lý hay cả những nghĩa vụ dân sự mà
bên này phải có đối với bên kia và đối với con cái họ trong việc cấp dưỡng và
giáo dục. §2. Không được áp dụng việc
xử án hộ sự khẩu biện cho những vụ án tuyên bố hôn nhân bất thành được nói
đến ở những điều 1656-1670. §3. Trong những vấn đề khác
liên quan đến thủ tục, phải áp dụng những điều luật về những việc xử án nói
chung và về việc xử án hộ sự thông thường, trừ khi bản chất sự việc không cho
phép, miễn là vẫn giữ nguyên những quy tắc đặc biệt liên quan đến những vụ án
về tình trạng nhân thân và những vụ án có dính dáng tới công ích. |
Điều 1691 giữ
nguyên quy định của điều 1689, 1690 và 1691 cũ.
Xử án hộ
sự khẩu biện (đ. 1656-1670) chỉ áp dụng cho một số trường hợp mà luật cho phép,
bị cấm đối với vụ án hôn nhân. Trong thủ tục xét xử này có buổi họp để đưa ra
các chứng cứ và bàn luận, với sự hiện diện của thẩm phán, các vị tham gia vụ
kiện như công tố viên, bảo hệ viên… luật sư và các bên tương tự như vụ án dân
sự thông thường.
Những luật về
thủ tục cho vụ án vô hiệu của hôn nhân được Giáo Luật dành ra một phần riêng.
Tuy nhiên thẩm phán cũng phải tuân theo những luật chung về tố tụng hộ sự, trừ
khi bản chất sự việc không cho phép. Thẩm phán cần phân định để có thể uyển
chuyển việc áp dụng thủ tục chung vào vụ án hôn phối (đơn giản hơn, loại trừ
những điều không cần thiết) do bản chất của vụ án vô hiệu hôn phối có nhiều
khác biệt với những vụ án hộ sự, thường là kiện tụng nhau về quyền lợi, hay vụ
án hình sự.
Việc cấm xử án
hộ sự khẩu biện (đ. 1656-1670) là một ví dụ cho thấy vụ án hôn phối không đặt
tầm quan trọng trên sự tranh cải lẫn nhau như trong xử án thông thường. Bản
chất hoặc đối tượng vụ án vô hiệu hôn phối là tìm ra sự thật của sự vô hiệu của
kết hôn. Điều này liên quan đến thủ tục về các lời khai và chứng cứ. Có những
thủ tục liên quan thẩm phán có thể áp dụng một cách đơn giản hơn miễn là giúp
tìm ra sự thật. Trong khi đó các vụ án hộ sự khác và hình sự, những thủ tục này
cần áp dụng nghiêm ngặt hơn.
Tình trạng kết
hôn của một người chính là một tình trạng nhân thân. Vì vậy, cũng cần phải tôn
trọng những quy tắc đặc biệt liên quan đến những vụ án về tình trạng nhân thân.
Một trong những nguyên tắc là tình trạng nhân thân thì không bao giờ trở thành
vấn đề quyết tụng (đ.1643), nghĩa là, vụ án không coi như đã hoàn toàn xử xong,
hoặc không coi như đã được quyết định hoàn toàn chấm dứt, không còn khả năng
khiếu nại hay xin xử lại (đ.1641, 1642).
[Thêm phần ghi chú của
LM. J.B. Lê Ngọc Dũng]
Ngày 17 tháng 4 năm 2024, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam có ra những quy định
về thủ tục hôn phối áp dung trong toàn thể Giáo Hội Việt Nam. Vì đây là những
quy định dựa trên nền tảng Bộ Giáo luật 1983, tôi mạn phép được ghi thêm những
quy chiếu Giáo luật, đặt trong ngoặc đơn và một số ghi chú cần thiết.
HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT
NAM
QUY ĐỊNH VỀ THỦ TỤC HÔN PHỐI
ÁP DỤNG CHO TOÀN GIÁO HỘI TẠI VIỆT NAM
Để giúp các mục tử và
các đôi bạn chu toàn thủ tục hôn phối theo giáo luật và phù hợp với thực tế,
trong Hội nghị kỳ 1/2024 tại Trung tâm Mục vụ Giáo phận Vĩnh Long, Hội đồng
Giám mục Việt Nam ban hành quy định về thủ tục hôn phối áp dụng cho toàn Giáo Hội
tại Việt Nam:
I. Năng quyền chứng hôn và ủy quyền chứng
hôn
Điều
1
Đấng
Bản quyền địa phương và cha sở, do chức vụ, có năng quyền chứng hôn thành sự
trong giới hạn địa hạt của mình (x. GL 1109).
Muốn
chứng hôn ngoài địa hạt của mình, cần phải được sự ủy quyền của cha sở nơi mà
đôi bạn có ý định xin cử hành (x. GL 1108§1; 1111).
Ghi chú: Linh mục, phó tế không có năng quyền chứng hôn, chứng hôn bất thành, trừ khi được ủy quyền. Cha sở, cha phó, linh mục, phó tế để chứng hôn thành sự ở một giáo xứ A nào đó đều phải có sự ủy quyền của cha sở của giáo xứ A đó. Vì năng quyền chứng thuộc về cha sở nơi cử hành kết hôn (năng quyền tòng địa). Quan niệm cha sở của bên nam hay bên nữ ủy quyền cho cha sở nơi cử hành chứng hôn là không đúng. Nó sẽ trái ngược, nếu cha sở (không phải là của nơi cử hành kết hôn) không có năng quyền lại đi ủy quyền cho cha sở (của nơi cử hành kết hôn) có năng quyền.
Điều
2
Việc
uỷ nhiệm năng quyền chứng hôn, để hữu hiệu, phải được minh nhiên ban cho những
người nhất định. Nếu là uỷ quyền riêng biệt, thì phải xác định rõ đôi hôn nhân
nào; còn nếu là uỷ quyền tổng quát, thì phải ban bằng văn bản mới hiệu lực (x.
GL 1111).
Ghi
chú: Nếu
cha sở chia phiên cho cha phó theo số lần hay theo số ngày mà bất kể (= không
xác định rõ) đó là đôi hôn nhân nào thì được coi là ủy quyền tổng quát, phải
ban bằng văn bản. Nếu không ban bằng văn bản trong trường hợp này, chứng
hôn bất thành. Nếu đã nhầm lẫn hay không biết thì được bù năng quyền, những hôn
nhân đó thành sự. Tuy nhiên, nếu đã đọc biết thì Giáo hội không bù nữa,
chứng hôn bất thành (x. GL 144§2).
II.
Quyền chứng hôn và nhiệm vụ chứng hôn của cha sở
Điều
3
Để
cha sở chứng hôn hợp luật, phải có ít là một trong đôi bạn đã cư ngụ trong giáo
xứ của mình được một tháng. Nếu không, cha sở phải xin phép Đấng Bản quyền
riêng hoặc cha sở riêng của một trong đôi bạn (x. GL 1115). Trong trường hợp
này, Đấng Bản quyền riêng hoặc cha sở riêng chỉ “cho phép” chứ không “ủy
quyền”.
Ghi chú: Nếu không “có phép” việc chứng hôn
bất hợp luật nhưng vẫn thành sự.
Điều
4
Khi
một trong đôi bạn xin được kết hôn trong giáo xứ mà người ấy có cư sở hay
thường trú, cha sở buộc phải chứng hôn cho họ, không được từ chối, vì chứng hôn
là một trong những nhiệm vụ được ủy thác đặc biệt cho cha sở (x. GL 530, 40).
Khi một người xin kết hôn trong giáo xứ nơi họ không có cư sở, chỉ có bán cư sở
hoặc chỉ mới cư ngụ được một tháng, cha sở nên chấp nhận chứng hôn cho họ.
Để
chứng hôn cho người không có cư sở hay bán cư sở ở bất cứ nơi nào, cần phải có
phép của Đấng Bản quyền địa phương nơi cử hành kết hôn (x. GL 1070 §1, 10).
Ghi
chú: Nói
cách khác, cha sở cần xin phép Bản quyền địa phương để chứng hôn cho người
phiêu cư đang ở trong địa hạt của mình.
Điều
5
Cư
sở hay bán cư sở của giáo dân không tùy thuộc vào sự đăng ký - nhập vào một
giáo xứ, nhưng tùy thuộc “ý định” hoặc “thời gian” cư ngụ của họ (x. GL 102).
Việc không đăng ký vào giáo xứ hoặc việc vắng mặt quá lâu khỏi giáo xứ không
phải là lý do để cha sở phủ nhận việc thủ đắc cư sở hoặc từ chối nghĩa vụ chứng
hôn.
Ghi
chú: Điều
102:
§1.
Cư sở được thủ đắc do việc cư ngụ trong địa hạt của một giáo xứ hay ít ra của
một Giáo Phận, với ý định sẽ ở đó vĩnh viễn, nếu không có gì thay
đổi, hoặc việc cư ngụ đã được kéo dài năm năm trọn.
§2.
Bán cư sở được thủ đắc do việc cư ngụ trong địa hạt của một giáo xứ hay ít ra
của một Giáo Phận, với ý định sẽ ở đó ít là ba tháng nếu không
có gì thay đổi, hoặc việc cư ngụ đã thực sự được kéo dài suốt ba tháng.
“Ý
định” cần được chứng minh bởi sự kiện, ví dụ như mới mua nhà, di cư từ xa
đến ở…
III.
Nhiệm vụ thiết lập hồ sơ, điều tra, rao báo
Điều
6
Cha
sở nơi cử hành chứng hôn có nhiệm vụ thiết lập hồ sơ và điều tra hôn phối (x.
GL 1113; 1070). Trong trường hợp bất khả kháng, cha sở có thể nhờ một linh mục
có khả năng thực hiện giúp, có thể là cha sở của bên nam hoặc bên nữ, hoặc nơi
mà một trong đôi bạn đã cư ngụ được một tháng (x. GL 1070).
Ghi
chú: Nhiệm
vụ nói trên được quy về cha sở nơi cử hành hôn phối, căn cứ theo Giáo
luật, điều 1113, cha sở này “trước khi ban uỷ quyền riêng biệt, phải
chu toàn tất cả những gì luật đã ấn định để chứng minh tình trạng thong dong của
các bên” (GL 1113), và điều 1070: “Nếu người thực hiện
việc điều tra không phải là cha sở có thẩm quyền chứng hôn, thì
người này phải thông báo sớm hết sức cho cha sở biết kết quả việc điều tra ấy
bằng một văn thư chính thức”.
Điều
7
Khi
cả đôi bạn đều có cư sở ở nước ngoài nhưng muốn kết hôn tại Việt Nam, cha sở
tại Việt Nam có thể áp dụng như sau:
-
Hoặc cha chấp nhận đảm nhận chứng hôn cho họ và chu toàn tất cả các quy định về
thủ tục hôn phối (x. GL 1113).
-
Hoặc cha yêu cầu họ xin một cha sở của một bên ở nước ngoài đảm nhận chu toàn
các quy định về thủ tục hôn phối, và gửi lại cho cha giấy xác nhận là không có
gì cản trở (nihil obstat) cho việc kết hôn thành sự và hợp luật (x. GL
1070; 1066).
Ghi
chú: Xem
điều 1070: “Nếu người thực hiện việc điều tra không
phải là cha sở có thẩm quyền chứng hôn, thì người này phải thông báo sớm
hết sức cho cha sở biết kết quả việc điều tra ấy bằng một văn thư chính thức”.
IV.
Giới thiệu kết hôn
Điều
8
Khi
tín hữu thuộc giáo xứ mình cử hành kết hôn ở một giáo xứ khác, cha sở có nghĩa
vụ cấp giấy giới thiệu, trong đó chỉ ra những nơi mà người đó đã cư ngụ, và cấp
chứng thư Rửa tội và Thêm sức.
Nếu
không thể tìm thấy trong sổ hoặc có được chứng thư Rửa tội hay Thêm sức, cha sở
có thể chứng nhận dựa theo lời tuyên bố của một nhân chứng đáng tin cậy hay lời
thề của chính người đã được rửa tội, nếu họ đã lãnh nhận bí tích Rửa tội ở tuổi
thành niên (x. GL 876).
Trong
trường hợp cha sở không cấp giấy giới thiệu, cha sở nơi chứng hôn vẫn có quyền
chứng hôn, miễn là chu toàn tất cả các quy định về thủ tục hôn phối.
Ghi
chú: Khi
tín hữu không có chứng thư Rửa Tội, để tránh gây khó khăn cho họ, lời tuyên bố
của một nhân chứng đáng tin cậy thì cũng đủ. Điều 876: “Lời
tuyên bố của một nhân chứng đáng tin cậy, hoặc lời thề của chính người đã được
Rửa Tội nếu họ đã lãnh nhận bí tích Rửa Tội ở tuổi thành niên, đủ để làm bằng
chứng cho việc ban bí tích Rửa Tội, nếu điều đó không gây thiệt hại cho
ai".
V.
“Điều tra sơ khởi” đối với người ngoài Công giáo
Điều
9
Trước
khi đảm nhận việc chứng hôn cho một trong đôi bạn là người ngoài Công giáo, cha
sở nơi chứng hôn sẽ xin cha sở nơi người ấy thường trú giúp “điều tra sơ khởi”
về tình trạng thong dong của người sắp kết hôn.
Nếu
thấy đôi bạn có thể tiến tới kết hôn thành sự và hợp luật, cha sở nơi chứng hôn
thiết lập hồ sơ và gởi giấy rao tới cha sở giáo xứ nơi người ngoài Công giáo đó
thường trú.
Ghi
chú: Cha
sở có thể nhờ ban chức việc tại địa phương người ngoài Công giáo thường trú để
giúp điều tra.
Điều
10
Cha
sở xin giúp điều tra cần phải gởi bản “đơn xin cử hành hôn nhân” của đôi bạn
với các thông tin cần thiết cho cha sở nơi người ngoài Công giáo thường trú.
Nếu
không biết người ngoài Công giáo đó thường trú thuộc giáo xứ nào, thì liên hệ
với Tòa Giám mục của giáo phận đó.
VI.
Trường hợp kết hôn với người ngoại quốc
Điều
11
Để chấp nhận chứng hôn có yếu tố người
nước ngoài, ngoài các yêu cầu về giáo luật, hồ sơ cần có những giấy pháp lý như
sau:
1° Giấy do cơ quan chính quyền cấp chưa
quá sáu tháng, xác nhận tình trạng chưa có kết hôn, hoặc đã kết hôn nhưng người
phối ngẫu đã qua đời.
2°
Giấy đăng ký kết hôn nơi cơ quan chính quyền, hoặc của Việt Nam hoặc của nước
ngoài.
3° Trong trường hợp có hoài nghi, cha sở nơi chứng hôn
yêu cầu đôi bạn xin giấy chứng nhận của linh mục đang làm việc mục vụ tại nơi
họ ở.
Ghi chú: Yêu
cầu của 1° có thể được thỏa mãn cách gián tiếp. Ví dụ trong hồ sơ đăng ký kết
hôn đáng tin, có nơi nào đó có nói kết hôn lần đầu.
VII.
Rao hôn phối
Điều
12
§1.
Việc điều tra hôn phối thông thường được thực hiện bằng cách rao hôn phối tại
nhà thờ vào ba thánh lễ Chúa nhật liên tiếp. Cha sở có quyền chuẩn rao một Chúa
nhật, cha quản hạt có quyền chuẩn rao hai Chúa nhật, và Bản quyền địa phương có
quyền chuẩn rao ba Chúa nhật.
§2.
Đối với trường hợp thành sự hóa hay hợp thức hóa hôn phối cho những đôi bạn đã
và đang muốn tiếp tục chung sống vợ chồng chung thủy, cha sở có thể tùy nghi
cho miễn rao.
Ghi
chú: Đôi
đã sống rối với nhau đã lâu, nếu không có gì hoài nghi, thì có thể miễn rao.
Điều
13
§1.
Cha sở nào có nhiệm vụ hoặc đảm nhận việc thiết lập hồ sơ, phải lập tờ rao và
gởi đi các nơi liên quan để nhờ rao, kể cả cha sở của nơi người ngoài Công giáo
cư trú, hoặc nơi một bên đã cư ngụ trong một thời gian khá lâu (trên 1 năm). Việc
rao có thể thực hiện sớm, trước khi đôi bạn hội đủ những điều kiện khác, như
học giáo lý, đăng ký kết hôn dân sự...
§2.
Khi nhận tờ xin rao hôn phối, cha sở có bổn phận phải rao và báo kết quả rao
sớm hết sức, mặc dù không có ai trong đôi bạn thuộc quyền mình.
Ghi
chú: Phải
rao ở cả giáo xứ mà bên người lương hay Tin Lành thường trú. Ngoài ra, cũng cần
phải gởi giấy rao đến nơi một bên đã cư ngụ trong một thời gian khá lâu hoặc
thấy có sự hoài nghi nào đó, vì có thể có những trường hợp có con riêng nhưng
giấu giếm hoặc còn vướng mắc do cuộc sống chung với người khác trước kết
hôn.
Điều
14
Trong
trường hợp không nhận được kết quả rao vì một lý do nào đó, cha sở nơi chứng
hôn vẫn có quyền cho cử hành kết hôn, miễn là đã điều tra và thấy chắc chắn
không có ngăn trở.
Ghi
chú: Cha
sở nơi chứng hôn vẫn có quyền cho cử hành kết hôn, miễn là "Trước khi cử hành bí tích Hôn Nhân phải biết chắc không
có gì cản trở việc cử hành bí tích thành sự và hợp luật". ( GL. 1066).
Điều 15
Trong trường hợp không thể chứng minh tình trạng thong
dong của một người bằng những giấy tờ pháp lý, hoặc có giấy tờ pháp lý mà còn
có hồ nghi, cha sở có thể khôn ngoan điều tra riêng, qua thân nhân của người
sắp kết hôn, hoặc hai nhân chứng đáng tin.
Ghi chú: Khi việc điều tra sơ khởi bên người ngoài Công
giáo không thể thực hiện được, cha sở có thể khôn ngoan điều tra riêng,
như gọi điện thoại hỏi han điều tra, đòi có giấy chứng
nhận của cha mẹ, đính kèm bản sao căn cước công dân.
VIII. Giáo lý hôn nhân
Điều 16
§1. Trước khi kết hôn, đôi bạn buộc phải học giáo lý hôn
nhân. Việc học giáo lý có thể thực hiện ở bất cứ giáo xứ nào, hoặc tại một cơ
sở được Đấng Bản quyền chuẩn nhận.
§2. Chỉ có cha sở hoặc cơ sở được chuẩn nhận mới có quyền
cấp chứng chỉ giáo lý hôn nhân.
§3. Các chứng chỉ giáo lý hôn nhân này được công nhận
trong toàn Giáo Hội tại Việt Nam và có giá trị vô thời hạn.
Điều 17
Cha sở nơi dạy giáo lý hôn nhân hoặc giáo lý dự tòng, có
thể đón nhận học viên, mặc dù không có giấy giới thiệu của cha sở nơi học viên
có cư sở hoặc thường trú. Tuy nhiên, vì liên đới trách nhiệm, cha sở nơi dạy
giáo lý nên yêu cầu học viên xin giấy giới thiệu của cha sở nơi người ấy thường
trú.
Trong trường hợp bất khả kháng không thể xin giấy giới
thiệu, cha sở nơi dạy giáo lý có bổn phận đón nhận học viên, sau đó gởi giấy
cho cha sở riêng của đương sự để kính tường hoặc nhờ điều tra.
Điều 18
Thời gian khóa giáo lý hôn nhân kéo dài từ một đến ba
tháng. Có thể rút ngắn nhưng vẫn bảo đảm những điều căn bản.
IX. Giáo lý dự tòng
Điều 19
Trong trường hợp học giáo lý dự tòng để kết hôn, thời
gian dự tòng nên là sáu tháng, ít nhất là ba tháng.
Vì tôn trọng quyền tự do tôn giáo, chỉ nên khuyên chứ
không được ép buộc người ngoài Công giáo theo đạo như là điều kiện để kết hôn.
Nếu đương sự muốn, nên chấp nhận cho kết hôn với chuẩn khác đạo.
X. Thẩm quyền miễn chuẩn - cấm kết hôn
Điều 20
Đấng Bản quyền địa phương có quyền miễn chuẩn, bất kể hôn
nhân được cử hành trong giáo phận mình hay giáo phận khác, cho những người
thuộc quyền mình đang ở bất cứ nơi nào, và mọi người, Công giáo hay không Công
giáo, đang cư ngụ trong địa hạt mình (x. GL 1078 §1).
Để thuận tiện, cha sở nơi cử hành hôn phối, khi thiết lập
hồ sơ và điều tra, nên giúp đôi bạn xin Đấng Bản quyền của mình chuẩn các ngăn
trở hôn phối mà Tông Toà không dành riêng cho mình (x. GL 1078 §2).
Nếu việc kết hôn được cử hành ở một giáo xứ thứ ba nhưng
việc thiết lập hồ sơ và điều tra lại được thực hiện bởi cha sở của một trong
đôi bạn, thì nên xin Đấng Bản quyền của một trong đôi bạn chuẩn ngăn trở hôn
phối.
Ghi chú: Trong hôn nhân khác đạo, cả hai người trong đôi
bạn được hưởng miễn chuẩn để được kết hôn với nhau, không có nghĩa là chuẩn chỉ
cho bên Công giáo hoặc chỉ cho bên người lương. Bản quyền của bên Công giáo hay
của bên người lương cư ngụ được đều có quyền miễn chuẩn.
Điều 21
Cha sở không có quyền cấm kết hôn, cũng không được phép
đặt thêm quy định có giá trị như những luật cấm hay hạn chế việc kết hôn (x. GL
1058; 1077§1).
Việc không chu toàn các nghĩa vụ trong giáo xứ không được
coi như những lý do để từ chối việc ban các bí tích cho những người xin lãnh
nhận cách thích đáng (x. GL 843§1).
Ghi chú: Cần phân biệt giữa việc tín hữu đã chuẩn bị hay sẵn sàng
đón nhận Bí tích và việc họ chu toàn nghĩa vụ đối với công ích trong giáo xứ.
Nếu không chu toàn nghĩa vụ, họ có thể bị từ chối, không được hưởng quyền lợi
nào đó thuộc công ích (Vd. chôn táng ở nghĩa trang, đội mai táng giúp đỡ...).
XI. Theo đạo Công giáo sau kết hôn
Điều 22
§1. Giáo Hội công nhận giá trị của hôn nhân đã được cử
hành bởi một thể thức “công” theo luật hay tục lệ của người ngoài Công giáo,
cũng quen gọi là hôn nhân tự nhiên, nghĩa là công nhận hôn nhân đó thành sự.
§2. Một khi hôn nhân đã thành sự, đã trở nên vợ chồng thì
không được cử hành hôn nhân lần thứ hai trong đạo Công giáo. Vì vậy, khi một
hoặc cả hai người trong đôi bạn, đã kết hôn thành sự theo thể thức ngoài Công
giáo, nay xin được thâu nhận vào thông công đầy đủ với Giáo Hội Công giáo hoặc
xin được rửa tội, thì không được cử hành kết hôn lại.
§3. Nếu chỉ một người trong đôi bạn người lương ấy theo
đạo, họ không phải xin chuẩn hôn nhân khác đạo. Nếu cả hai người trong hôn nhân
đó được rửa tội, hôn nhân của họ tự động được nâng lên phẩm giá bí tích.
XII. Ghi sổ - Sổ sách
Điều 23
§1. Cha sở nơi cử hành hôn phối buộc phải gửi giấy chứng
nhận hôn phối cho các cha sở của nơi mà đôi bạn đã được rửa tội, để các ngài
ghi chú vào sổ rửa tội, cho dù họ không còn có cư sở ở đó nữa (x. GL 535§2).
Cũng cần gởi cho cha sở nơi đôi bạn có cư sở những chứng
thư hoặc chứng nhận cần thiết về bí tích, để ngài lập sổ Gia đình Công giáo.
§2. Các chứng nhận bí tích của Kitô hữu, cách riêng là bí
tích Hôn phối, cho dù là sổ hay chứng nhận, luôn phải có chữ ký, ngày tháng và
nơi lãnh nhận bí tích Rửa tội (x. GL 849).
Điều 24
Việc cấp sổ Gia đình Công giáo thuộc nhiệm vụ và thẩm
quyền của cha sở; không tùy thuộc vào việc đã nhập xứ hay đang tạm trú, hoặc có
hay không đóng góp cho giáo xứ.
Điều 25
§1. Các hồ sơ hôn nhân: chứng thư, giấy giới thiệu, giấy
rao, kết quả rao,... được phép gởi qua các phương tiện kỹ thuật số với các bản
scan màu hoặc bản chụp ảnh, miễn là được làm một cách đúng đắn, rõ ràng.
§2. Phải được gửi trực tiếp từ văn phòng giáo xứ/giáo
phận này đến văn phòng giáo xứ/giáo phận kia.
§3. Khi có hồ nghi về sự giả dối, liên lạc với những
người có thẩm quyền của đương sự.
Trung tâm Mục vụ
Giáo phận Vĩnh Long,
ngày 17 tháng 04 năm
2024
(đã ký)
+ Đaminh Nguyễn Văn Mạnh
Giám mục Giáo phận Đà Lạt
Chủ tịch Uỷ ban Mục vụ Gia đình
(đã ấn ký)
+ Giuse Nguyễn Năng
Tổng Giám mục TGP Sài Gòn – Tp HCM
Chủ tịch HĐGM Việt Nam
[1] Các tòa kháng án
khác xin đọc Đề mục 1, số 1.2, đã nói ở phần trên, trong tập sách này.
[2] Ngày hữu dụng không
tính những ngày lễ nghĩ hoặc ngày không thể làm việc được do phải đi lại...;
Khi chỉ dẫn về kháng án cho các bên, luôn cho biết hạn định kháng cáo là 15
ngày hữu dụng, kể từ khi họ nhận được thông báo bản án.
[3] Thời gian tiến hành
kháng án có thể tùy hoàn cảnh mà thẩm phán định liệu, không nhất thiết phải
trong thời hạn một tháng.
[4] x. Coram Cormac
Burke, 20-1-1994, trong Studia canonica, 29 (1995), pp. 253-260;
[http://www.cormacburke.or.ke/node/391]. Bản án này có ở phần phụ lục cuối
sách.
[5] Trong thực tế, hầu
như các nguyên đơn khi nhận được thông báo bản án phủ nhận sự vô hiệu (negative)
của hôn nhân, đều muốn kháng án. Hơn nữa, theo quy tắc luật, thông báo luôn phải
chỉ ra khả năng và cách thức kháng án. Sự thông báo này khiến hầu như tất cả
các nguyên đơn bị bản án phủ nhận tiêu hôn đều muốn nộp đơn kháng án, bất kể
mình có cung cấp được những lý do hay chứng cứ có giá trị gì hay không.
[6] Coram Cormack
Burke, 20-01-1994, ở trong Studia canonica, 29 (1995), pp. 253-260.
[7] Kiểu nói (formula)
"nova causae propositio” (la nuova proposizione della causa), theo
giải thích của Tribunale Ecclesiastico Regionale Lombardo, có nghĩa là xử lại vụ
án. Cf. http://www.terl.it/8-6-appello-ed-efficacia-della-sentenza-p-ord/.
[8] ROTA ROMA, Sussidio
applicative del Motu pr. Mitis Iudex Dominus Iesus, Città del Vaticano, gennaio
2016, 50.
[9] Đổi chữ những “giới
hạn” (termini) trong bản dịch 2007, ở điều 1513, bằng chữ những “tiêu điểm” cho
đúng đắn hơn.
[10] Cf. MI, Regole
procedurali, art. 18§1.
[11] Cf. MI. Sussidio
Applicativo, 27.
[12] ALESSANDRO
FINOCCHIARO (a cura di), Saggi (1973-1978), Giuffrè Editore, 54, https://books.google.com.vn/books?
[13] MI, Regole
procedurali, art. 14§1.
[14] Cf. MI, Sussidio
applicativo, 32.
[15] Cf. FRANCESCO,
Allocuzione alla Rota Romana, 23 gennaio 2015.
[16] Cf. FRANCESCO,
Esort. Ap. Evangela gaudium, n. 93.
[17] Cf. FRANCESCO,
Esort. Ap. Evangela gaudium, n. 94.
[18] Cf. MI, Sussidio
applicativo, 33.
[19] Cf. MI, Sussidio
applicativo, 34.
[20] Cf. MI, Sussidio
applicativo, 34.
[21] Cf. MI, Sussidio
applicativo, 35.
[22] Cf. MI, Sussidio
applicativo, 35.
[23] Cf. MI, Sussidio
applicativo, 12.
[24] Cf. MI, Regole
proceduralim, art. 16.
[25] Cf. MI, Sussidio
applicativo, 58; MI, Regole procedurali, art. 16.
[26] Cf. MI, Sussidio
applicativo, 38.
[27] Cf. MI, Regole
procedurali, art. 18§1.
[28] Cf. MI, Regole
procedurali, art. 18§2.
[29] Cf. MI, Sussidio
applicativo, 39.
[30] Đổi chữ “xác tín
luân lý” (moralem certitudinem, certezza morale, moral certitude) trong bản dịch
2007, điều 1608 và 1707, thành chữ “chắc chắc luân lý”, vì đòi hỏi của pháp lý
là sự chắc chắc chứ không phải là sự xác tín hay sự tin tưởng.
[31] “Essa, nel lato
positivo, è caratterizzata da ciò, che esclude ogni fondato o ragionevole
dubbio e, così considerata, si distingue essenzialmente dalla menzionata
quasi-certezza; dal lato poi negativo, lascia sussistere la possibilità
assoluta del contrario, e con ciò si differenzia dall'assoluta certezza”.
[32] MI, Regole
procedurali, art. 12.
[33] Cf. MI, Regole
procedurali, art. 20§1.
[34] Cf. MI, Regole
procedurali, art. 20§2.
[35] Đổi thứ tự các mệnh đề trong bản dịch năm 2007. Bản này đã tách rời một mệnh đề ra thành một câu như sau: “Trong những vụ án này, những thể thức pháp lý của một vụ án thông thường được bỏ qua, trừ việc triệu tập các bên ra tòa và sự can thiệp của bảo hệ viên”. Sự tách rời ra như vậy sẽ gây hiểu lầm là trong vụ án tài liệu, trừ việc triệu tập các bên ra tòa và sự can thiệp của bảo hệ viên, tất cả những thủ tục khác thì được bỏ qua. Bản dịch này không tách ra nhưng vẫn giữ mệnh đề ở vị trí như nguyên bản Latinh, vì sự bỏ qua thủ tục chỉ gồm có một số trong phạm vi liên hệ, chứ không tất cả.



